Thứ Năm, 26 tháng 6, 2014

Khi một nền giáo dục không còn khả năng tự cải hóa tự thay đổi





Giá trị khoa học cao nhất thời nay là biết chăm chỉ phục vụ thời sự

Việc một số nhà giáo dạy văn kì cựu tỏ ý hoan nghênh đề thi tốt nghiệp THPT năm nay bàn về biển đảo không làm cho những người như tôi ngạc nhiên.

Chẳng qua các nhà giáo ấy chỉ muốn khẳng định con đường mà họ đã theo từ trước đến nay.

Con đường nào? Đó là thông qua văn học — chủ yếu là văn học hiện thời -, thuyết minh rao giảng cho các hoạt động đang thu hút sự chú ý của xã hội và coi đó gần như là công việc chính của người giảng dạy một bộ môn nhân văn như văn học.



Lịch sử kể cả lịch sử văn chương chả là thứ gì xa xôi trừu tượng mà phải quá lo. Tất cả trông vào phản ứng của người ta trước tình hình thời sự.

Người sáng tác cũng như người giảng dạy văn chương phải coi phục vụ thời sự là niềm hãnh diện.

Nhiều thế hệ người thày đã quen với ý nghĩ như vậy.

Từ đó, nếu có đào tạo ra một lớp người đời sống tinh thần nghèo nàn, nghề nghiệp không có, lấy việc làm theo mệnh lệnh từ trên xuống làm niềm tự hào…thì cũng chẳng ai lấy làm xấu hổ.

(Trên đây cũng là cách hiểu của tôi với điều mà nhà nghiên cứu Giáp Văn Dương gần đây mô tả -- chúng ta chỉ lo đào tạo con người công cụ. Chỉ xin bổ sung thêm, thứ con người công cụ mà nền giáo dục ta đào tạo nên là loại công cụ quá cổ lỗ thô sơ ; trong trường hợp sản phẩm giáo dục đang nói, đó là một thứ công chức xoàng xĩnh không ai muốn dùng).



Một sự sai khác dễ thấy khi so sánh

Có nhiều điều do đã quá quen, nên ta tưởng ở đâu cũng vậy lúc nào cũng vậy, sau biết rộng ra hóa không phải.

Thử nhìn vào các cuốn sách giáo khoa môn văn ở bậc tú tài Sài Gòn trước 1975. So với sách tương tự Hà Nội, chỗ khác thì nhiều, trong đó có cái điểm là ở đó có một tinh thần khoa học nghiêm túc với nghĩa:

-- không bao giờ có chuyện văn học phục vụ chính trị một cách thô thiển nói chung,

-- không bao giờ dành cho văn chương đương thời một sự sùng bái quá đáng; không ép học sinh phải học mọi thứ văn chương vừa viết rời tay và mới xuất hiện trên báo chí vài năm ….

Còn ở Hà Nội thì sao? Trước khi vào Đại học Sư phạm Vinh, tức là từ hồi còn học cấp II, cấp III Chu Văn An, tôi đã được biết rằng các nhà nghiên cứu văn học đương thời bị khống chế theo cái phương châm học từ Trung quốc sau 1949 là hậu kim bạc cổ.

Lúc học đại học, phần văn học cổ điển chúng tôi chỉ được học rất sơ sài. Bao nhiêu sinh viên có năng lực đổ xô cả vào việc tìm hiểu văn học đương thời, lấy việc được tham dự vào đời sống văn học trước mắt làm niềm tự hào. Còn một số sinh viên chót đi theo văn học cổ điển và văn học nước ngoài thì đành xót xa như bị đẩy ra chầu rìa trở thành người đứng ngoài cuộc. Phải một thời gian họ mới học được cách làm cơ hội chủ nghĩa ở trình độ cao hơn, sẵn sàng bóp méo lịch sử phục vụ thời sự và nhờ thế, họ lại trở nên cao giá hơn. Nhưng đó là chuyện về sau.

Khái quát lại thì thấy Các vấn đề nội tại của một ngành khoa học, các vấn đề mà nó phải đối diện trong suốt lịch sử hình thành không là gì cả, nếu nó không phục vụ thời sự.

Không chỉ môn Văn, mà các môn khoa học xã hội khác cũng đều đi theo hướng đó, nhưng ở môn văn, người ta lại hay có những lý lẽ che đậy khéo léo hơn, do đó đáng xấu hổ hơn.

Từ những người quản lý giáo dục cho tới các giáo viên đều thống nhất xác định nhiệm vụ của khoa học là góp phần lý giải các hiện tượng thời sự, còn cái gốc khoa học thì bị lảng tránh và tùy tiện thay đổi, chín bỏ làm mười là thường, mà bốn năm, thậm chí hai một,cũng vẫn là con số mười đẹp đẽ.

Thời sự ở đây vừa có nghĩa là đời sống tinh thần sau 1945 nói chung, vừa có nghĩa là các vấn đề nổi cộm của từng năm tháng cụ thể.



Một hệ thống phụ thuộc và bị hòa tan

trong hệ thống hành chính vô cảm


Trở lên là tình trạng giáo dục phục vụ chính trị trên bề mặt.

Sự phục vụ này còn đi vào bề sâu, biến thành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của một bộ máy đồ sộ -- cả trong việc dạy và học, số người trong ngành tính ra lên tới con số chục triệu.

Có dịp tìm hiểu lại nền giáo dục trước 1945 và nền giáo dục ở Sài Gòn trước 75, tôi nhận ra một sự thật -- hồi đó, bản thân giáo dục là một hệ thống quyền lực.Nó có nguyên tắc tổ chức riêng của nó.

Nhà thơ Chế Lan Viên có lần nói với Nguyễn Khải và Nguyễn Khải về kể lại cho tôi một nhận xét. Ông Chế bảo, ở xã hội cũ, một viên tri huyện tuy vậy vẫn phải nể nhà sư trụ trì mấy ngôi chùa lớn, hay các vị đỗ đạt cao nay không làm gì chỉ về mở trường trong vùng. Còn các chức danh đốc học, giáo thụ, huấn đạo – các học quan tương ứng với tỉnh, phủ , huyện -- là người do triều đình cử chứ không phải do chính quyền địa phương cử, hoặc nếu địa phương cử thì triều đình cũng phải duyệt.(1)

Sang thời cách mạng thì hoàn toàn ngược lại. Nhiều vị sư do nhà nước phân công vào chùa hoạt động, hoặc sau khi vào chùa lấy việc cộng tác với chính quyền làm niềm vinh dự, nghĩa là trong hệ thống sai bảo của chính quyền theo nghĩa đen.

Còn người phụ trách giáo dục các cấp hoàn toàn do ủy ban cử sang.

Cả những hiệu trưởng cũng vậy, phải do Ủy ban thông qua.

Bộ máy tổ chức cán bộ địa phương thường hoạt động theo nguyên tắc là ai tài giỏi cho đi phụ trách các ngành chính trị kinh tế. Còn văn hóa giáo dục sẽ phân công cho những người kém thế lực và kém năng lực.

Đánh đấm ở chiến trường hay vật lộn với sản xuất với thị trường mới khó, chứ việc quản mấy ông thầy với đám học trò ranh, ai làm chẳng được – người ta hiểu vậy.



Một trong những chuyện buồn cười nhất thời gian gần đây là chỉ thị của Bộ gíáo dục cho các tỉnh, khuyên cơ quan chính quyền tỉnh nên cẩn thận và ráo riết trong việc kiểm soát các tin tức tiêu cực từ các cuộc thi.

Nó là bằng chứng cho thấy giáo dục đã nát như thế nào.

Nhưng nó cũng tố cáo sự phụ thuộc hoàn toàn của nhà trường vào nhà cầm quyền. Giáo dục trở thành việc nhà của địa phương rồi, người ta cho biết cái gì thì dân được biết cái đó.

Một kỷ niệm nữa có liên quan tới những năm 55 – 58,khi tôi học cấp II Chu Văn An. Trường ở ngay cạnh Chủ tịch phủ. Hễ có các vị quan khách nước ngoài tới thăm, xe đưa từ sân bay Gia Lâm về Ba Đình, là bọn tôi được lệnh bỏ học, ra đứng đường để hoan nghênh các vị khách quý.

Ở các địa phương việc huy động thầy trò vào các công việc gọi là công ích, là công tác chính trị của địa phương, càng phổ biến.

Người ta tự coi mình đương nhiên có quyền can thiệp vào mọi việc của nhà trường. Còn những việc như thế, làm hại đến chất lượng giáo dục ra sao, thì không ai cần biết.



Một người bạn già có hiểu nhiều về giáo dục ở ta kể với tôi Bộ trưởng Bộ giáo dục trong chính phủ liên hiệp thành lập 2-1946 là Đặng Thai Mai. Nhưng về sau, do sinh viên trường đại học Đông dương đề xuất thắc mắc, Đặng Thai Mai chỉ tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, nên phải thay bẳng Nguyễn Văn Huyên có bằng tiến sĩ Sorbone Đại học số một của Pháp.

Việc chọn người tham gia chính phủ thời kỳ 1945-46 có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tôi tin chắc rằng thời ấy việc cử Bộ trưởng Bộ giáo dục buộc phải tuân theo nhiều chuẩn mực nghiêm khắc, chứ không phải à uôm hoặc phe cánh chạy chọt, như từ sau khi Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên qua đời tới nay.



"Giáo dục thì ta không kém gì thế giới"

Một lần đọc hồi ký Đoàn Thêm, tôi biết rằng ở miền Nam trước 11-1963, ông Ngô Đình Diệm có một nhận thức về nền văn hóa giáo dục nước nhà rất đặc trưng cho người Việt. Đại ý, theo Ngô Đình Diệm, nước ta kém gì thì kém chứ dân ta rất ham học, ta có truyền thống về văn hóa giáo dục, có thể làm gương mẫu cho các nước Đông Nam Á(!) .

Về mặt này, có thể nói là giữa nhà chính trị họ Ngô với các đối thủ tức là những người của bên thắng cuộc, như chữ dùng của Huy Đức, hoàn toàn có một sự tương đồng.

Ở Hà Nội trước 1945, chúng tôi cũng sớm được ấn vào đầu niềm tự hào về thứ “cao quý nhà nghèo” của giáo dục văn hóa xứ mình. Cũng như phải hiểu các vị bề trên đứng ra chèo lái xã hội đều là những nhà văn hóa nhà giáo dục có tầm vóc quốc gia.

Ở miền Nam, sau khi Ngô Đình Diệm đổ, đến thời các vị tướng làm chính trị, thì họ khôn ngoan hơn. Bảo rằng bỏ mặc cũng được, mà bảo rằng thức thời cũng được - họ cho phép nền giáo dục lúc ấy vượt lên cái cổ hủ vốn có, kể cả vượt qua cả nền giáo dục khá bài bản thời Pháp thuộc, để chuyển sang học cách làm giáo dục mới mẻ của người Mỹ.

Ở miền Bắc thì trước sau vẫn thế.

Theo tôi hiểu, một trong những nét làm nên bản chất giáo dục Hà Nội và nay mở ra cả nước, đó là sự tiếp nối, là bộ mặt hiện đại của một thứ giáo dục làng xã tiểu nông, cái gì cũng tàm tạm gọi là có mà không cái gì đạt tới trình độ một nền giáo dục hiện đại. Nhưng đó là ý tôi biết được về sau. Suốt thời trẻ chúng tôi phải quán triệt một nhận định của trên

-- chúng ta có một nền giáo dục thuộc loại tiên tiến trên thế giới.

-- sau những học lỏm ban đầu của các nước anh em Liên xô Trung quốc, nay đã đến lúc chúng ta có thể tự lo liệu hết.Chỉ cần có tiền là ta sẽ có một nền giáo dục chẳng kém ai cả.



Mất dần mọi sự thiêng liêng

Dịp cuối niên học 2013-14, một anh bạn trạc tuổi tôi đi họp phụ huynh cho cháu nội trong nhà đang học tiểu học trở về kể rằng không khí học đường bây giờ sao ngao ngán hết chỗ nói.

Cái chính tức là nhà trường hiện nay truyền sang học trò tinh thần thi nhau cạnh tranh để giành mọi loại danh hiệu.

Trong việc đánh giá học sinh sau một năm học, người ta có chú ý đến nội dung bài vở nhưng nhiều chỗ che giấu hoặc làm lấy lệ; cái quan trọng hơn là trình độ thích ứng của mỗi em trước sự nhào nặn của nhà trường.

Từ đó nẩy sinh trong học sinh và phụ huynh tâm lý chỉ chăm chăm xem mỗi em học sinh ở vào cái thang bậc nào trong bảng thành tích mà nhà trường xếp đặt. Những chuẩn mực kiến thức cũng như đạo đức của em trở nên một cái gì hết sức trừu tượng và xa lạ.



Một lần, tôi đã đọc được lời than phiền của một phụ huynh là sao trong những dịp khai giảng bế giảng cứ bắt con em họ phải tập đi tập lại những động tác rất vô nghĩa để đón những cán bộ ủy ban sang dự. Trong khi đó cảm giác của người học sinh về sự thiêng liêng của nhà trường, sự thiêng liêng của buổi lễ khai giảng, hoàn toàn là một cái gì khó hiểu đối với lớp trẻ đương thời.



Khi nghĩ về những năm học tiểu học của mình trước 1954, tôi luôn nhớ về các thầy, các cô cũ. Không hiểu sao, tôi cảm thấy đối với các thầy có một sự kính trọng thật sự.

Con em chúng tôi hiện nay khi nói về nhà trường không mấy khi chúng nhắc tới những người thầy mà chúng đang học. Ngày 20-11 có đi chúc tết các thầy thì cũng sớm hiểu đây là cái lệ không làm không được.

Khoảng từ 1964 trở về trước, ở Hà Nội người ta còn chọn lọc khi tuyển người vào ngành sư phạm. Tức là có những người có thể rất giỏi, rất được việc, nhưng nếu không có cách sống thế nào đó, không có thói quen đạo đức thế nào đó, thì được khuyên là không bao giờ nên đi vào ngành sư phạm. Vì làm thầy lúc đấy cũng là một sự nghiệp thiêng liêng như tu hành vậy. Người ta không thể mưu cầu danh lợi khi đi làm thầy.

Có điều, đấy chỉ là di sản còn sót lại của nền giáo dục trước 1945 và kéo dài lót đót qua kháng chiến. Ngay trước 1975 tinh thần thực dụng cũng đã thấm vào lớp thanh niên mới lớn chúng tôi mà việc chán bỏ ngành sư phạm đã thành một thứ luật bất thành văn. Chúng tôi bảo nhau đó là nghề bán cháo phổi, nghề chở đò qua sông. Nhìn vào sự đãi ngộ của nhà nước ai cũng thấy lương giáo viên thuộc loại thấp. Ở nhiều vùng nông thôn, giáo viên phải làm thêm mới đủ sống. Có người nêu ra định nghĩa người giáo viên tức là người nông dân có thêm nghề phụ là nghề gõ đầu trẻ.

“Nhất y, nhì dược, tạm được bách khoa, sư phạm thông qua, nông lâm bỏ xó”

“Chuột chạy cùng sào mới vào sư phạm”…


những câu "danh ngôn" được truyền tụng hồi ấy gần đây tôi còn được nghe nhắc lại, với ngụ ý là tất cả những tệ hại xảy ra hôm nay, nó đã bắt nguồn lâu lắm rồi, ngay từ lúc xã hội còn thịnh trị.



Có một chuyện mà tôi thấy tuy có vẻ nhỏ nhặt không đáng nói nhưng sao vẫn thấy cần nói. Tại sao nền giáo dục của chúng ta, nhất là giáo dục tiểu học lại toàn sử dụng phụ nữ. Nhiều cô giáo quá, tỷ lệ cô quá cao. Nếu tôi không lầm có đến 80 – 90% giáo viên tiểu học các trường là phụ nữ. Theo sự hiểu biết của tôi, nhất là qua tìm hiểu nền giáo dục của các xã hội bình thường khác thì ngay trong trường tiểu học, học sinh đã cần lây truyền tính khỏe mạnh, cương nghị, quyết đoán của nam giới chứ không chỉ cần sự ngọt ngào, tình cảm của nữ giới.



Cạn kiệt năng lực thay đổi

Trong bài viết Làm sao cứu vãn nền giáo dục phi chuẩn mực này được? tôi đã nói tới tình trạng đang ngại nhất của nền giáo dục hiện nay – nó tiên thiên bất túc, bất thành nhân dạng do đó vô phương cứu chữa.

Người ta vẫn đang lớn tiếng yêu cầu là phải có những cải cách mạnh bạo trong ngành giáo dục. Nhưng với những người đang làm giáo dục hiện nay, tôi có cảm tưởng ở họ đã cạn kiệt năng lực tự thay đổi.

Muốn thay đổi được họ phải biết một nền giáo dục chuẩn mực là như thế nào, giáo dục các nước khác ra sao. Đằng này, họ không bao giờ biết một cái gì khác ngoài nền giáo dục mà họ đang sống và là những trụ cột. Người viết sách giáo khoa không biết rằng sách giáo khoa ở các nước khác người ta viết như thế nào. Người lên lớp giảng không biết rằng ở các nước khác người ta làm việc với niềm tin thế nào, kiến thức thế nào.



Trong đời làm báo hồi trẻ, tôi luôn luôn bắt gặp những người phụ trách báo mà không biết tờ báo nào thời trước cách mạng, không bao giờ biết  tờ báo nào ở nước ngoài và còn tham gia vào việc ngăn chặn cấp dưới của mình đọc các tờ báo ấy. Thế mà họ cứ làm công việc phụ trách báo vài chục năm trời.

Đến khi làm xuất bản tôi cũng gặp những ông giám đốc không hề biết nghiệp vụ xuất bản là gì. Nhiều ông nhà không có tủ sách cá nhân, bản thân không bao giờ đi lùng sách, không bao giờ ra các cửa hàng xem người ta mua sách ra sao. Vậy mà những vị giám đốc ấy, khi tiếp khách nước ngoài (hồi 1986 2000 , vẫn còn  khách loại này, Liên xô có, Trung quốc có), vẫn tự tin rao giảng kinh nghiệm xuất bản của mình cho khách.

Những người thầy giáo và nói chung là những người làm giáo dục ở ta cũng trong tình hình tương tự. Mà chuyện bên giáo dục cũng là chuyện của mọi ngành khác.



Đã đến lúc không còn biết học ở đâu nữa

Một trong những bài thơ thường trở lại trong đầu óc tôi những ngày này là bài 1940 của Bertolt Brecht



Con tôi hỏi: hay là con học toán?

Để làm gì? Tôi nghĩ. Khó gì con?

Con sẽ tính ra rất dễ dàng rằng

Hai mẩu bánh ăn no hơn một mẩu

Con tôi hỏi: hay con học tiếng Pháp?

Để làm gì? Tôi nghĩ. Nước suy rồi

Con cứ việc lấy tay xoa bụng

Gào lên, người ta sẽ hiểu con.

Con tôi hỏi: hay là con học sử?

Để làm gì? Tôi nghĩ. Con ơi.

Con hãy học vùi đầu xuống đất

Có thể mai ra còn sống thoát được chăng!



Thế rồi, tôi nói: ừ con

Con học toán, học Pháp văn, học sử.


(Trần Dần dịch

– Trích từ Bertolt Brecht Thơ trữ tình, NXB Hội Nhà văn, 2006, tr. 70)



Khoảng hơn mười năm trước đây, tôi cũng sống theo như lời khuyên của Brecht, tức là khi không biết làm gì thì bảo nhau quay về học.

Nhưng giờ tôi thấy phải nghĩ khác, một cách nghĩ bi quan hơn. Đối với thế hệ trẻ hiện nay, kể cả các bạn mới học xong đại học và mới bước vào đời, nay lời khuyên đó cũng không đủ nữa. Họ biết học làm sao khi cả xã hội không có không khí học tập. Họ biết học làm sao khi sống trong một xã hội cạn kiệt năng lực cải hóa thay đổi. Từ cấp thấp đến cấp cao, phần kiến thức cơ bản mà mọi thanh niên phải có ở các nước, đến với họ quá lỗ mỗ cũ kỹ. Họ biết học làm sao khi không có ngoại ngữ và do đó không có thói quen tìm hiểu về các nề giáo dục khác. Họ biết học làm sao khi không biết rằng trên thế giới người ta đã tiến đến đâu rồi.

Với việc trói buộc nền giáo dục trong quan niệm cổ lỗ của mình, từ đó tạo ra một cơ chế không còn khả năng tự thay đổi, xã hội chúng ta đang trong tình trạng giậm chân tại chỗ, tự tái tạo ngày mai của mình theo cái mẫu hôm nay và làm cho nó suy đồi tan nát hơn mà lại vẫn tự huyễn hoặc là đang đi tới một tương lai tốt đẹp hơn.



---

(1) Xem bài Vài nét về giáo dục địa phương nhà Nguyễn

Nguồn tin:trang Web Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Thứ sáu, 11/04/2014

Theo Đại Nam thực lục, các chức quan quản lý việc học dưới thời nhà Nguyễn đó là: Đốc học, Giáo thụ, Huấn đạo. Mỗi chức quan sẽ quản lý ở một cấp khác nhau. Đốc học, có nhiệm vụ làm thanh tra học vấn ở cấp tỉnh, tước quan hàng Ngũ phẩm, được chọn trong số những người đỗ Tiến sĩ. Giáo thụ, quản lý việc học ở cấp phủ, tước quan hàng Thất phẩm, được chọn trong số những người đỗ Cử nhân. Huấn đạo có trách nhiệm quản lý việc học ở cấp huyện, có tước quan hàng Bát phẩm, được chọn trong số những Tú tài.

Việc chọn ra các học quan dưới thời nhà Nguyễn cũng có những tiêu chuẩn nhất định như:

“Năm Gia Long thứ 11 (1812), nhà vua đã truyền chỉ cho quan tổng trấn Bắc Thành để bổ chức Đốc học, Trợ giáo cho các tỉnh, trấn còn khuyết với tiêu chuẩn là người đó phái có học hạnh. Người nào địa phương tự xét thấy đủ tiêu chuẩn thì kê khai rõ tên tuổi, quê quán để tâu lên triều đình”. Năm Minh Mệnh thứ 4 (1823) triều đình lại có nghị chuẩn về tiêu chuẩn tuyển chọn các học quan như sau “chức dạy học ở các phủ, huyện nếu là Hương cống, Sinh đồ thì hạn tuổi từ 40 trở lên, là ẩn sĩ thì hạn từ 50 tuổi trở lên. Người nào đã được sung chuyển thì Bộ Lễ hội đồng với Quốc tử giám sát hạch, nếu đạt thì chỉ chờ để phân công công việc”.


























Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

Một di sản chiến tranh: tình trạng kém cỏi của việc học ngoại ngữ và những bế tắc trong hội nhập và phát triển hôm nay





Khi không
có ý thức và thói quen


                                      làm bạn với  các nước khác


                                                 người ta làm sao có thể hội
nhập  


                                                                                                    





    Từ chiến tranh trở về, những người viết văn
thuộc lớp chống Mỹ chúng tôi lòng đầy háo hức.Trong số những việc liên quan tới
việc lập nghiệp, có việc học ngoại ngữ. Ồ, cái đó cần lắm chứ, phải lo học,
phải đi quốc tế, phải trở thành những
trí thức thật đàng hoàng – nhiều người gặp nhau ở ý nghĩ ấy. 


Nhưng chẳng bao
lâu, không ai bảo ai mà đều ngấm ngầm nhận ra một sự thực: Học  khó quá. 
Tắc. Hình như kiến thức nó cố trốn chạy
khỏi mình.


 Như trong chuyện ngoại ngữ, dù có kiên trì đến mấy, học cũng không
vào. Nhà văn nọ, có lần, sau khi tuyên bố hùng hồn là mình học tiến bộ lắm, xoè
ra cho mọi người thấy một quyển sách
tiếng Anh mới mua được ở một hiệu sách cũ. Bạn bè chung quanh nhìn kỹ, thì ra
đó là một cuốn sách tiếng Pháp.



 Dĩ nhiên về sau, cái sự gọi là quyết tâm kia có giảm. Có
thương nhau thì bảo nhau lo viết ngay đi; chứ còn việc học, mà nhất là việc đọc
sách và xì xồ với nhau mấy câu bằng các thứ tiếng xa lạ  -- một hai năm
sau, mọi người nói nhỏ với nhau -- sao  thấy nó phù phiếm quá  (!).





 Di lụy của những cấm đoán


     Những kỷ niệm trên lập tức trở lại trong
tâm trí tôi, khi nghe những lời than phiền gần đây về tình trạng dân mình đội
sổ trong việc ngoại ngữ và nhất là cái 
cách người ta giải thích về tình
trạng bê bết đó.


     Lấy ngành giáo dục làm ví dụ. Tuy trong thực
tế việc học và dạy được tổ chức rất kém song trên các tuyên bố chính thức, việc chinh phục ngoại
ngữ có lúc được đề lên như một thứ quốc sách. So với những năm chiến tranh, phải
thấy điều kiện học của các bạn trẻ bây giờ đã khá hơn trước rất nhiều. Lại càng
không nên nghĩ đến chuyện ký tính, sức
nhớ, khả năng thông minh của học sinh sinh viên nước mình … Vậy thì tại sao mọi
việc thê thảm làm vậy? Không dám coi như một môn bắt buộc trong các kỳ thi phổ
thông. Để mặc cho hiện tượng bằng giả tràn lan. Chấp nhận tình trạng quê mùa của cả xã hội mà không có cách nào kháng cự?  Phải chăng cái sự kém cỏi kia
hiển nhiên và kéo dài từ thế hệ nọ sang thế hệ kia đến mức người ta bắt đầu
tuyệt vọng.


    Chính
ở đây, tôi  thấy phải nói tới những
nguyên nhân tâm lý:


   Nhìn vào lớp nhà văn chống Mỹ vừa nói ở
trên, trước tiên tôi nhớ tới hoàn cảnh mà bọn tôi lớn lên, trong đó có những
chuyện mà ngày nay không ai tưởng tượng ra nổi.


    Có một hồi người Hà Nội xác định với nhau là “ta chỉ nói chuyện với chính ta“. Nghĩ tới người nước ngoài là nghĩ chuyện phải
cảnh giác. Đi đường, thấy tây đầm hỏi đường, không được chỉ. Sổ ra vài câu tiếng
tây với họ là bị công an gọi về đồn liền.


   Xưa nay nghề dịch vốn đã èo uột, vậy mà hồi
đó báo chí, kể cả báo chí  văn nghệ còn
gần như cai hẳn tức là bỏ luôn cái  mục
được coi là rắc rối này. Vả chăng, muốn làm cũng chẳng có gì mà làm. Sách Anh
Pháp không nhập, ngay sách Trung văn cũng không có, bên Bắc Kinh đang cách mạng
văn hoá. Một số cuốn sách xô - viết  loại
như Chuyện núi đồi và thảo nguyên in xong -- cũng như phim Đàn sếu bay qua mang chiếu -- liền bị phê
phán và thu hồi.


    Quả thật trong một tình cảnh chiến tranh
nay sống mai chết, có ai còn bụng dạ nào mà nghĩ đến ngoại ngữ nữa.


      Điều đáng nói là lâu dần thành một thói quen,
ngay cả khi những rào cản cụ thể hôm qua không còn, thì những rào cản trong tâm
lý con người không phải bỗng chốc mà dỡ bỏ được ngay. Nó đã ăn vào tư duy, chi
phối  tình cảm và ý chí của nhiều thế hệ.
Vì thế mới có tình trạng  sống giữa sách
vở ê hề, tài liệu chồng chất và gần như
không chịu một hạn chế nào như hiện nay, người ta chỉ có học đòi làm dáng, chứ vẫn không thể có một sự giao
lưu và tiếp nhận tốt như đáng lẽ phải có.





Sự lảng tránh cố ý


    Năm 2004, một nhà văn Mỹ là S. Sontag qua đời. Tôi nhớ những năm
chiến tranh, bà này có qua Hà Nội, và nghe nói nhận xét về người mình hay lắm, mà bọn tôi không được giới thiệu.


    Thì
may quá, có hôm đọc sách của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc thấy ông kể
S. Sontag từng nhận xét người Việt Nam ít có thói quen tư duy trên một
phạm vi địa lý rộng.


     Đó cũng là cái ý mà một người Nhật gần đây có sống mấy năm liền ở
Hà Nội nhận xét: Người Việt ít khi đặt mình vào địa vị của người khác để suy xét.


    Tôi cho rằng chính những đặc tính trên đây
cản trở việc học ngoại ngữ của ta hiện nay.   


     Đọc lịch sử cận đại, thời các cụ đua nhau Đông
du, lại được biết:  Hồi Phan Chu
Trinh mới qua Nhật, ông có được  gặp cả
thủ tướng Nhật Bản lúc ấy mà phiên âm qua tiếng Hán Việt gọi là Đại Ôi. Câu đầu
tiên mà Đại Ôi nói với Phan Chu Trinh đại ý tôi nghe nói người Việt Nam đã
lâu, mà nay mới gặp, hoá ra người các ông ít đi nước ngoài thật. Tiếp đó, khi
biết rằng người đối thoại với mình  lúc
ấy chưa biết tiếng Pháp, Đại Ôi tỏ vẻ ngạc nhiên, sao lại thế, muốn đánh đuổi
gì người ta cũng phải hiểu người ta đã, không học tiếng Pháp sao được ?


    Chuyện đầu thế kỷ XX mà nghe như chuyện của
chính chúng tôi trong thời chống Mỹ.


     


Phải bắt đầu bằng một sự khao khát


   Những anh em lên Sapa về thường kể, không
hiểu tại sao  tuy chỉ tích luỹ theo kiểu
học lỏm khách du lịch mà nhiều thanh niên dân tộc H’mong trên đó nói tiếng Anh
rất giỏi, trong khi nhiều người Kinh mình học có bài bản hẳn hoi mà nói vẫn rất
quê.


    Từ chuyện có vẻ ngược đời đó, vẫn trên cái mạch đi tìm những ảnh hưởng
của văn hoá đối với việc học ngoại ngữ, tôi muốn nêu một giả thiết  :


    Tuy không nói ra rành rọt, nhưng những
thanh niên H’mong kia hiểu rằng ngoài
cái thế giới mà họ đang sống, còn có thế
giới rộng hơn,gần nhất là thế giới của người Kinh. Và 
muốn tồn tại họ phải hoà nhập với thế giới đó. Tức là ý thức về mình và
kẻ khác của họ đã phát triển và nó ăn vào 
trong tâm thức họ, đời nọ truyền sang đời kia. Khi tiếp xúc với
một thứ tiếng mới, họ có nhu cầu  buộc
mình cố bắt chước nói cho thật giống.


     Còn ngược lại, nhiều người vùng xuôi khi tiếp xúc với người nước ngoài, tuy ở ngay
các đô thị lớn, song thường thiếu nghiêm túc, không coi là chuyện thiết yếu liên quan đến cuộc sống của mình. 


     Sự xem
thường đó là cả một thứ vô thức tập thể kéo dài và bền chắc, nó lưu cữu trong
ta, và tha hồ tác oai tác quái.


     Miền Bắc xã hội chủ nghĩa chúng tôi bấy lâu nay
là thế chứ còn gì nữa!





một sự mệt mỏi …không nên có


   Tôi đang công tác ở một nhà xuất bản. Thỉnh
thoảng, cơ quan tôi cũng có khách nước ngoài và khi tiếp khách, ông giám đốc
không quên mời một số nhân viên cùng dự.


   Nhưng sau một ít lần háo hức, những
ngày gần đây, phải thú thực tôi rất
ngại.


   Phần thì tiếng tăm không biết.

   Phần thì, trong những buổi gặp đó, thường
chúng tôi hiện ra vô duyên thảm hại. 


   Đại khái muốn trò chuyện về văn chương thì
phải hiểu văn chương nước người ta ra sao, muốn bàn về xuất bản phải hiểu tình hình xuất bản bên
họ thế nào. Đằng này chúng tôi mù tịt. 


  Theo lời một nhà thơ, đầu óc cũng rất
tỉnh và cũng từng là quan chức đầu ngành Hà Nội là Vũ Quần Phương -- thì nhiều
cuộc gặp gỡ của các nhà văn ta với nhà văn nước ngoài bí chuyện trao đổi với
thảo luận quá, rút lại chỉ còn nói tiếu lâm và bàn chuyện ăn uống, đại khái hỏi
họ bên nước ông ăn thìa hay ăn đũa, rồi tán dần ra.


    Vài lần chầu rìa và ngồi nói tào lao như
thế qua đi, giờ đây “nhỡ “ được gọi  tiếp
khách là tôi xin kiếu. Một số bạn bè cùng lứa 
cũng có tâm trạng như trên.


    Chúng tôi muốn các bạn trẻ biết cho chuyện
này và đừng lặp lại. Dẫu sao, khi vào đời, một sinh viên cũng phải có được một
ngoại ngữ. Đó là dấu hiệu để có thể nói rằng mình và thế hệ mình đã đi ra
và muốn làm bạn với thế giới. Ngoại ngữ cũng chính
là phương tiện để đạt tới cái đích tự nhiên đó.


    Còn nếu như sau khi đã quyết tâm rồi mà các bạn vẫn không sao học nổi thì xin có hai đề nghị có vẻ trái ngược nhau:

    Một là các bạn đừng trách mình nhiều. Nói thật, lỗi không phải ở các bạn đâu mà lỗi là ở những người đi trước, nay các bạn vẫn đang phải gánh chịu những di lụy của quá khứ.

   Hai là tuy vậy, các bạn vẫn phải tìm cách vượt lên để học bằng được những điều cần học. Con người phải có ao ước vượt qua định mệnh.

   Học được một ngoại ngữ cho rành, ra ngoài làm ăn với thế giới một cách đàng hoàng, là cách tốt nhất để góp phần sửa chữa những sai lầm của quá khứ và do đó là vượt lên so với các thế hệ đi trước.





 Nguyên là bài


 Tại sao
người mình kém ngoại ngữ?


Báo Sinh viên Việt Nam


10-2006





 Viết thêm 16-6-2014


 Trở lên là trong phạm vi chuyện trong nhà, nói xuê xoa
với nhau cho xong. Còn xét trên nhu cầu phát triển thì việc kém cỏi trong dạy
và học ngoại ngữ chỉ làm rõ hơn tình trạng trì trệ của xã hội ta.


Có người nói sau bốn chục
năm, chúng ta vẫn chưa ra khỏi chiến tranh.


Có người nói  những nguyên tắc chỉ đạo xã hội hậu chiến chẳng qua vẫn là những nguyên tắc thời chiến, nay chế biến lại chút ít. Vẫn những tư tưởng ấy, chỉ có điều nó đã hết năng lượng tổ chức. Vẫn con cháu những người đi trước chia nhau làm chủ xã hội, chỉ có điều nay họ liều lĩnh hư hỏng thoái hóa hơn cha ông. 


Nói cách nào thì cũng cùng một ý.


Xét trong phạm vi giới văn
học mà ở trên tôi đã dẫn làm ví dụ.


 Đáng lẽ là lớp nhà văn có mặt ở mọi chiến
trường trong chiến tranh khi quay về phải lo học hỏi mọi mặt trong đó có việc
học bằng được ngoại ngữ.


 Để làm gì, để
hiểu biết chung về tình trạng thế giới hiện đại, từ đó có định hướng khai thác
kinh nghiệm vốn có.


 Nói hẹp hơn, có ngoại ngữ -- với nghĩa rộng là
có sự tiếp xúc bình thường với văn học nước ngoài -- mới học hỏi cách viết về
chiến tranh ở các nước đó, quay về mới
biết  khai thác tốt nhất những kinh
nghiệm thời chiến phục vụ việc tổ chức cuộc sống của con người xã hội hậu chiến.


 Ở các nước bình thường khác, những người nào
chỉ biết dừng lại ở các kinh nghiệm quá khứ, khư khư tôn sùng quá khứ, ngủ
nguyên trong vinh quang quá khứ, lớp người đó bất cứ thuộc ngành nghề gì sẽ bị
đào thải.


 Nhưng ở ta hôm nay, các bước ngoặt lịch sử
chiến tranh hậu chiến chưa bao giờ được nhận thức nghiêm túc.


Nay
ta đã bắt đầu thấy cần phải hội nhập. Nhưng muốnbiết là hai chuyện
khác nhau.


 Một sự hội nhập mà không bao gồm cả những đau
xót làm lại chính mình;


một
sự hội nhập mà không bao gồm đào thải 
những gì cô độc cô quả là cách sống chủ yếu của thời chiến Hà Nội hôm
qua;


một
sự hội nhập như thế chẳng qua là chuyện hời hợt bề ngoài. Phát triển sao được.