Chủ Nhật, 27 tháng 7, 2014

Tiếp nhận và vận dụng lý luận trong nghiên cứu văn học hiện nay


Trong bài viết này, tôi tập trung  nêu một  số nhận xét cụ thể:


  --  mấy
chục năm qua, đời sống lý luận có  nhiều
sôi động bởi đó  là do nhu cầu xã hội đòi
hỏi. Song được như thế một phần, là nhờ dịch của nước ngoài ; về căn bản ta chỉ mang những cái học được ra áp
dụng ; 
mà trong  việc vận dụng cũng đang
có  nhiều điều bất cập.


--  sự phát triển lý luận vẫn chưa có gì đáng kể
; lại đã xuất hiện tình trạng khoe mẽ,
làm dáng, thói láu cá phản khoa học.


 --  Những  căn bệnh này vốn có trong tư duy lý luận các
thế hệ cũ nay được tái phát và trở nên trầm trọng hơn.




                    


                  


                                                 


một ít tiền đề lịch sử


      “Trong
lịch sử văn học nước ta  cũng có khi người ta chuyên luận về triết học, nhưng ít
thôi ; dường như đây không phải là truyền thống lớn của ông cha ta
“ (1).


      “ Tổ
tiên ta ít làm lý luận … Sự phân công lao động xã hội không đủ mạnh, không đủ
triệt để, để hình thành một tầng lớp lao động trí óc, làm công việc xây dựng các
phạm trù  và hệ thống tư tưởng
“ (2)


     Những nhận xét thẳng thừng nói trên là của Trần Văn Giàu và Hà Văn Tấn. Các ông phát biểu khi bàn chung về lịch sử tư tưởng Việt Nam.


    Song
sự khái quát của các ông cũng  đúng với cả  tình hình tư tưởng, tình hình
lý luận  văn chương.


     Và
điều quan trọng, nó không phải chỉ đúng trong thời trung đại, khi sự
sáng tác nằm trong quy luật của một nghề thủ công, mà còn đúng cả khi bước sang
thời hiện đại.

     Nửa
đầu thế kỷ XX,  chứng kiến sự ra đời
của  lý luận phê bình như một bộ môn độc
lập của văn học Việt
Nam
hiện đại. Có điều manh nha ra đời chứ chưa phải phát triển như lẽ ra nó phải
có.  Ai cũng nhận  hai cuốn sách thành công nhất của lý luận phê bình thời kỳ 32-45 là
Thi nhân VN 1932-41 của Hoài Thanh và Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, song
nhìn vào thì một cuốn nặng về cảm thụ, một cuốn kỹ càng tỉ mỉ trong việc bình
giá tác phẩm, chứ không phải  mạnh về
khái quát quá trình văn học. Chưa hề có một cuốn nghiên cứu vừa bám sát đời sống văn học, vừa
mang đậm chất lý luận.



    Tình trạng lom đom lệt bệt của lý luận không phải vấn đề riêng của giới cầm bút, mà còn là vấn đề chung của xã
hội lúc ấy.


     Năm
1938, Việt nam văn hoá sử cương của Đào Duy Anh in ra, thì năm sau, Hoài
Thanh có bài giới thiệu trên tạp chí Tao Đàn.


    Trong phần cuối bài viết này, sau khi bảo rằng đọc lịch sử văn hoá Việt Nam là một điều cần thiết,
Hoài Thanh lấy làm tiếc là dư luận đang
thờ ơ lạnh lùng với quyển sách. Theo ông,
sách khảo cứu thì công chúng xứ ta mấy
năm gần đây tuồng như không muốn biết
đến nữa. Người ta chỉ xem những thứ  gì
không  cần phải nghiền ngẫm suy nghĩ ;
người ta chỉ xem  để giết thì giờ, để
giải trí  không có mục đích gì khác
  “ (3) .


   Tức là một cách sống, cách  làm 
văn học theo kiểu trung đại  vẫn đang ngự trị.


    Hơn nửa thế kỷ sau, trong một cuốn sách
bàn về một vấn đề lớn của văn hoá và in
ra năm 2004, có người còn viết:“Khái niệm tư duy hầu như không tồn tại trong
truyền thống tư tưởng Việt Nam
“. (4).


     Nghe như một câu ngẫu nhiên buột miệng,
rồi vô ý viết ra mà quên không xoá bỏ, -- nhưng không phải trong đó không có
rất nhiều  sự thực.


  


 Những bước vận động 


     Trên cái nền mạch như thế, có thể nhận ra
đường dây phát triển lý luận phê bình
trong đời sống văn học từ sau 1945, về một phương diện nào đó như là có sự bùng nổ. Có dịp giở lại tạp chí iên
phong
ra hồi 1945-46, hoặc tạp chí Văn
nghệ
 ra trong kháng chiến chống Pháp, người ta dễ
dàng nhận thấy là phần sáng tác chỉ chiếm một bộ phận nhỏ, không đến non nửa. Ví dụ mỗi số như vậy chỉ có một hai truyện ngắn, dăm bảy bài thơ; mà phê bình
theo nghĩa hẹp cũng chưa có thể viết
nhiều vì chưa có tác phẩm. Phần chính ở đây là các bài  tiểu luận nêu ý kiến, thảo luận bàn bạc trao đổi về văn chương văn hoá.


     Hơn bao giờ hết, với sự thay đổi mà cách
mạng mang lại, người ta cảm thấy cuộc sống hôm nay sẽ khác hôm qua, cách làm
văn nghệ cũng khác. Chí ít thì việc cầm
bút  không chỉ được phép dựa vào thói
quen, mà còn cần đến rất nhiều suy xét phán đoán.


     Nên nhớ là vào thời điểm đó, ngay cả những
người xưa nay không mấy khi dùng đến lý tính, cũng bắt buộc phải làm quen với
nó.


     Trong truyện ngắn Đôi mắt  viết năm 1948, Nam Cao, qua miệng nhân vật
Hoàng, từng ghi lại cái  tình trạng mà
trước 1945 không ai hình dung nổi :“Viết chữ
quốc ngữ sai  vần mà  lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả
lên. Mở miệng ra là thấy
đề nghị, yêu cầu, phê bình, cảnh cáo, thực
dân, phát xít,  phản động, xã hội
chủ  nghĩa, dân chủ với  cả tân dân dân chủ
nữa, mới khổ thiên hạ chứ.”


      Thật dễ mỉm cười  khi nghe những người chỉ quen với việc đồng
áng cấy cày nói vậy.


      Song, trong lịch sử, cái mới bao giờ chẳng đến
như là một cái gì lạ lẫm  kỳ cục! Thành
thử, nếu như bảo rằng tình trạng mà Nam Cao mô tả cũng là tình trạng xảy ra ở nhiều lĩnh vực khác trong đó có 
lĩnh vực văn chương, thì có gì là khó hiểu?


     Phải nhận đây là những nét mới của thời đại.


     Xu thế đi vào lý luận có từ văn nghệ kháng chiến như thế này lại sẽ được tiếp tục tự nhiên từ sau hoà bình lập lại 1954.  Nhu cầu của xã hội  kéo đến đâu công tác nghiên cứu  khởi động và phát triển theo đến đấy. Trong
khi đời sống sáng tác có những biến chuyển thì trong các nhà trường, các chương
trình lý luận được biên soạn và chí ít đã hình thành nên cả một bộ môn học
ở  đại học cũng như ở các lớp viết văn
cấp tốc.


    Tôi
nhớ vào khoảng 1973-1974, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đi vào giai đoạn
cuối,  bắt đầu có một số Việt kiều về
thăm Hà Nội và có đến gặp các cán bộ đang chủ trì Hội nhà văn Việt Nam. Người
đứng đầu Hội là Nguyễn Đình Thi thường kể với bọn nhà báo chúng tôi là trong
những lần ấy, ngoài các sách sáng tác, mấy anh chị em ở xứ người trở về thường
không quên đề nghị giới thiệu cho họ biết những cuốn sách lý luận quan trọng.
Một nền văn học bộc lộ qua cái phần tự ý thức mà nền văn học đó tuyên bố, điều
đó đáng quan tâm lắm chứ !


      Song, sẽ là quá sớm và có phần lạc quan
tếu, nếu bảo rằng từ đấy chúng ta đã có một nền lý luận độc lập. Hệ luận chủ
yếu mà người ta có thể rút ra  khi  nhìn lại sinh hoạt lý luận lúc này, đó là việc phát triển lý luận  một thời gian dài, rút lại, quy vào việc du nhập lý luận của nước ngoài. Tức là xem xem ở những
nước có nền văn chương mà chúng ta muốn học, người ta làm thế nào, thì lựa lời
nói lại, rồi  tìm cách làm theo. Một cách
tự nhiên, thấy diễn ra cái  tình hình Hà
Văn Tấn đã miêu tả. Theo ông, trong lịch
sử tư tưởng, luôn luôn xảy ra  quá trình
nội sinh hoá các yếu tố ngoại sinh; cũng tức là du nhập các hệ tư tưởng từ xa tới, mài giũa chúng cho phù hợp với nhu cầu trong
nước
(5).  


 


Đã chính xác chưa?      


   Một mảng sách lớn trong văn học Việt Nam
hiện đại là sách dịch thuật. Nhưng sau một thời gian mải miết đọc, nay đã tới lúc
mọi người bắt đầu nhìn nhau tự hỏi:


  --Hình như hoạt động được coi là quan trọng này đang trong tình trạng bột phát
ngẫu nhiên, gặp đâu làm đấy ?


   --Liệu có chắc thứ văn học mà chúng ta đã
dịch là bộ mặt chân thực của văn học thế giới nghĩa là ta đã hiểu đúng thế giới? Nếu chưa thì tại sao? Và nếu hiểu sai
thì liệu có khả năng rồi ra chúng ta sẽ hiểu đúng về kẻ khác?


    Trong
việc tiếp nhận những cái hay cái đẹp của người, có phải đang có những lý do cụ thể nó hạn chế chúng ta lại ?


     Đại thể đó cũng là những vấn đề của sự
tiếp nhận  lý luận phê bình.


    Có những chuyện mà bỏ qua thì thôi
không nói làm gì, nhưng khái quát lên thì quả là những vấn đề ta phải băn khoăn. Tôi lấy một ví dụ có liên quan
đến phần nguyên lý sáng tác:


     Ngay từ những năm trước 1975, có một “lời
nói có cánh“ mà các nhà thơ tiền chiến như Chế Lan Viên, Tế Hanh … vốn rất
thạo tiếng Pháp và đọc nhiều lý luận về thơ phương Tây thường dẫn ra, xem như
một phương hướng mà lớp người lúc đó còn trẻ 
là bọn chúng tôi phải nghe theo “Thơ nào cũng là thơ thời sự “— lúc nói
điều này, các ông dẫn nguyên văn tiếng Pháp tôi còn nhớ lõm bõm như sau “Toute poésie est poésie de
circonstance


      Câu nói cô đúc như một nắm đấm thật chặt.
Người nói lại là một nhà thơ cổ điển. Thuyết phục quá chứ gì !


    Sau này chúng tôi mới biết thực ra trong
câu khái quát trên, chữ circonstance 
có nghĩa là trường hợp, cảnh ngộ …, poésie de circonstance có nghĩa là thơ gắn với một tình huống, một sự
việc cụ thể.


    Nó có tính trung hoà, do đó khác hẳn so với hai chữ thơ thời sự vốn có
cái nghĩa rất riêng mà những ai  sống với
văn học trước 1975 hẳn nhớ: thơ phải bám sát các sự kiện  xã hội, phải phục vụ nhiệm vụ chính trị do lãnh
đạo quy định. 


    Từ cái việc có vẻ nhỏ bé, không đâu vào
đâu này, thỉnh thoảng trong tôi không khỏi thoáng qua một thoáng giật mình: 


     Liệu những tư tưởng mới mẻ và tên tuổi xa lạ mà chúng ta được nghe giới thiệu
hàng ngày--- và nếu nghiêm túc mà xét, thì cả những tư tưởng sâu sắc mà chúng ta tiếp thụ được từ các sách
vở gọi là kinh điển ---, tất cả đã được truyền thụ chính xác?


    Hay nhiều khi ngay cả những người trong nghề vẫn chưa ra thoát tình trạng của ông cha ta ngày xưa, tức là mê man giữa những núi sách của nước
ngoài, rồi phỏng đoán, hiểu lệch, chép
vội chépvàng và  lo truyền thụ cho nhau theo kiểu ếch cõng
nhái
, cốt  học cho nhanh, và đành
chấp nhận là đã  tạo ra không ít sai lạc.


     Rồi lại còn những trường hợp cố tình lái ý
người ta theo cái chủ đích rất chân thành rất có thiện chí của mình, nhưng hoá
ra lại đưa nguyên ý đi rất xa so với chính nó !


     Tại hội nghị phê bình diễn ra ở Tam Đảo, tháng 8-2003, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân
đã có một bài tham luận, trong đó nhấn mạnh 
khi tiếp thụ  lý luận nước ngoài,
cần phải có quan điểm phê phán. Ai cũng thấy nói thế là đúng, xưa nay mọi người
vẫn nói thế, nhưng đôi lúc tôi vẫn muốn đặt thêm vào đây vài câu hỏi: 


 --trước khi
phê phán người, liệu ta có bảo đảm chắc chắn là đọc đúng hiểu đúng người?


 -- và
nếu không tiếp thụ chính xác thì việc phê phán còn có ý nghĩa gì nữa?





Từ những hạn chế trong tiếp nhận …


      Trong Lời nói đầu của  cuốn Sự phát triển của  tư tưởng Việt Nam,  sau đoạn mà phần trên chúng tôi đã dẫn, Trần
Văn Giàu còn nói thêm :“Ông cha chúng ta
ít viết về lý luận, trừ việc giải thích
hay bình kinh điển, cũng ít trình bày những vấn đề lý luận một cách có
hệ thống và chi tiết, dường như ngầm 
hiểu rằng  thánh hiền đã nói hết
rồi chỉ cần học và làm theo“
 .(6)


    Nói nôm na, tức các cụ xưa chỉ làm lý luận
cho phải phép, và chỉ giải thích kinh
điển chứ không ai tính chuyện phát triển kinh điển.


   Sau đây là một nhận xét đáng lưu tâm, chúng tôi đọc được trong một bài viết về sự tiếp nhận
Phật giáo ở Việt Nam.


    Theo Như Hạnh Nguyễn Tử Cường, khi tìm hiểu
Phật giáo, các nhà nho xưa ở ta không hiểu nhiều lắm về những văn bản gốc của
Ấn Độ  và thường tuỳ tiện mang cho nó một
màu sắc bản địa.


     Thứ
nữa, ở nhiều người,  thấy có sự mê hoặc
văn chương, hơn là một  phát triển tôn
giáo. Chỉ thích tìm về những danh tác nhằm thoả mãn cái thú yêu thích thơ văn. Trong nhận thức
luận, thích đề cao sự ngộ, tức
là hiểu biết có tính chất đột khởi, bừng
tỉnh, bỗng dưng  nắm được chân lý, mà
không thích nói tới công phu học hỏi chắc thiệt lâu dài
(7).


    Chớ nên quên rằng một đặc điểm nữa của việc
tiếp thụ lý luận vốn có từ thời trung đại là sách vở kinh điển thường
được đưa vào theo lối thu gọn, tóm tắt.Trong khi ở bênTàu người ta làm ra
những bộ đại toàn, đại hệ, thìở ta chỉ có những bộ toát ước.
Các cụ xưa muốn nhiều thứ quá, mà lại không có điều kiện, nên đành bằng lòng
với việc lướt qua chobiết mà  không dừng
lại ở cái gì thật kỹ càng.


     Lối tiếp nhận ấy đến nay vẫn còn tồn tại.
Trong chỗ riêng tư, và đôi khi ngay tại
các hội nghị từ 1986 về trước, tôi nhớ các nhà lý luận mà tôi có quen đã có lúc nói thẳng là chúng ta thường lấy
việc trở về với kinh điển là đủ, trong khi đáng lẽ phải xuất phát từ kinh điển để đi tiếp.


    Thông tin thì có, nhưng may lắm chỉ thấy nói người nọ người kia vừa đọc được một
ít cái mới, chứ gần như chưa có ai đáng gọi là người đẩy được lý luận tới
những giới hạn mới. Đến khi cần truyền thụ lại cho nhau thì sách vở được biên soạn theo lối chụp giật, đi đường tắt, dùng những trung gian chưa hẳn đã đáng tin cậy.


    Cách làm ăn
như thế đã thành một thứ học phong, tức một tác phong làm việc không dễ
từ bỏ.


     Đến lượt nó, một  sự du nhập lý
luận cẩu thả, tuỳ tiện… chắc chắn thành mầm gây bệnh. Sự rập khuôn tầm thường xen lẫn với lối ăn sống nuốt tươi
thô bạo đều đã xuất hiện. Và một khi những con đường lặp đi lặp lại mòn mỏi tự
nó đã hình thành  thì người ta 
kẻ trước người sau sẽ cứ mải miết 
mà đi, công việc cuốn người ta
đi, lý luận chỉ còn là một thứ trang sức cần thiết chứ mấy ai còn muốn nghĩ về
nó một cách nghiêm túc ? 





…   đến những sai lệch 
trong vận  dụng


      Còn nhớ, có lần Vũ Trọng Phụng đã  tung ra một truyện ngắn khái quát óc tư duy
của dân mình bộc lộ qua đám người có
học, và hay lý sự.


      Nó có cái tên hơi trừu tượng:Từ lý
thuyết  đến thực hành
.(8)


      Đại
thể đây là câu chuyện một người  ra sức
bênh vực cho các quan niệm Âu hoá, cụ thể là chấp nhận cho phụ nữ có quyền ngoại
tình, ấy vậy mà đến khi bị vợ cho cắm
sừng thì anh ta lại buồn thiu.


      Thông thường nhiều người cho rằng mục đích của
tác giả là chế giễu hiện tượng nói một đằng làm một nẻo.


     Song
theo tôi, ý nghĩa thiên truyện nằm ở đoạn cuối, khi tác giả trực tiếp trình bày cái 
cảm tưởng còn lại trong tâm trí mình “…Bỗng đâu tôi cũng chán đời. Và
hoài nghi. Thật thế, tôi tin rằng đất
Đại Cồ Việt ta là cái đất cằn cỗi, những lý thuyết  và tư tưởng ở đâu đâu,  tốt đẹp thế nào mặc lòng, cũng cứ đến đây là
thành thối nát. Tôi không tin dân An Nam ta lại có nổi một điều  tín ngưỡng nào một quan niệm chắc chắn gì.


    Cố nhiên rồi mai đây, mọi việc sẽ khác đi, và
sẽ tới lúc người ta làm được những điều 
tốt đẹp, đủ để xem như bằng chứng bác bỏ một cách thuyết phục cái cảm
tưởng hoài nghi nói trên của Vũ Trọng Phụng.


    Nhưng cái ngày đó chưa đến, và tới hôm nay
có vẻ như Vũ Trọng Phụng vẫn đúng.


    Xin được bắt đầu bằng một dẫn chứng đã
cũ:   


    Không chịu dừng lại ở công việc cảm thụ, từ trước 1945, một số người làm nghiên cứu  phê bình đã tìm cách đưa những lý luận mới
vào nghiên cứu văn học. Nguyễn Bách Khoa
tức Trương Tửu từng nổi tiếng với việc áp dụng cả những luận điểm mác-xít lẫn
phân tâm học để lý giải Truyện Kiều. Sức làm việc hơn người nơi ông được bổ sung một  sự nhạy cảm hiếm có với cái mới. Trong khi nhiều đồng nghiệp  khác thiên về cảm tính thì ông nổi lên như
một nhà khoa học uyên bác.


    Thế nhưng 
đọc lại những cuốn Nguyễn Bách Khoa viết về Truyện Kiều,  thấy ông không ra khỏi cách áp dụng gượng
gạo, thậm chí có chút gì đó như là cưỡng bức lý luận phải khuôn theo ý mình. 


    Ông bảo Nguyễn Du là một người mắc bệnh thần kinh, Kiều
là một con bệnh uỷ hoàng và u uất

(Nguyễn Du và Truyện Kiều) (9).


    Rồi, nương theo một vài ý kiến đọc được đây
đó, ông nói theo lối hàm hồ rằng chất thơ là một chất quý tộc,
yếu tố nền móng của chất thơ là cuộc đời ký sinh, biến
thái  cuối cùng của chất thơ là một trạng
thái bại hoại về thần kinh hệ

( Văn chương Truyện Kiều) (10).


    Những nhận xét tuỳ tiện này không ngẫu nhiên có mặt trong các trang
sách, mà tồn tại như một hệ thống lập luận nhất quán, và tác giả tỏ ra rất hài
lòng về những phát hiện của mình.


    Trong thuở ban đầu mới  làm quen với 
tính khoa học, mọi chuyện ở ta hiện ra như thế đấy ! Đọc sách, người
ta  không khỏi ngán ngẩm cho số phận cái
mới vào Việt Nam,
thật nó dễ  bị dày vò và bị làm hỏng đến như thế nào. 


    Điều đáng nói là ở chỗ căn bệnh trên không
phải của riêng Nguyễn Bách Khoa và những người cùng thời. Hơn nửa thế kỷ đã
trôi qua, song trong giới ưa nói lý luận hôm nay, cái việc làm theo kiểu Nguyễn
Bách Khoa chẳng những không tuyệt nọc mà lại có những diễn biến mới


    Có thể
bệnh không quá đáng không sống sượng như người đi trước, mà  chỉ bộc lộ 
ở  những dạng thức đơn giản hơn,
người ta dễ bỏ qua hơn hoặc nói chung là dễ tha thứ, dễ chấp nhận hơn. Nhưng nhờ vậy mà ở anh ở tôi, ở mỗi chúng ta, nó tồn tại một cách dai
dẳng, mỗi người đều có dây dưa ít nhiều, và có vẻ như  mọi người 
đã ngầm thoả thuận với nhau rằng quên đi cho xong, chứ 
lấy đâu ra thời gian và sức lực để 
ngồi  tính sổ một cách sòng phẳng
?!


    Có thể cắt nghĩa cái sự sống sượng nói trên
bằng những thói quen  tâm lý  đã hình thành ở một số nhà nghiên cứu háo
danh. Sự có mặt  của  tính vụ lợi ở họ không có cách nào che giấu.
Mà  biểu hiện của nó thì thật  muôn hình muôn vẻ. Chung quanh những cái đang
trở thành thời thượng, tức được xem như mới mẻ nhất tiên tiến nhất của nước
ngoài, người ta chạy đua để tìm cách chụp giật, nhận vơ về mình, làm như chính
mình nghĩ ra, hoặc  làm như chỉ nhắc
đến  tên 
của những lý luận ấy đã đủ là hơn người rồi. Ngược lại, nghe ngóng rằng
những tư tưởng nào đó có vấn đề thì chưa biết nếp tẻ ra sao cũng lao vào đánh
hôi
. Có thể đoán thoạt đầu, đây chẳng qua chỉ là một cách để tự đề cao. Song suy đến cùng thì bên trong
thấy ẩn giấu cả một chút  loè  bịp, cơ hội.


    Tuy nhiên, cũng phải ghi nhận thêm một sự
thực rằng việc vận dụng lý luận vốn là một loại tài năng và có thể nói là chúng
ta thường chưa biết sợ, chưa nhận thức hết cái khó của nó. 


     Trong đời sống khi so sánh
một người chỉ có chiếc xe đạp, nhưng bon bon trên đường, với người có một chiếc
xe máy loại sang trọng, nhưng đi đứng xẹo xọ, lái không vững, chạy không đều,
đổ ngã lúc nào không biết …  thông thường
mối thiện cảm của  chúng ta  là dành cho người thứ nhất chứ không phải
người thứ hai.


    Trong nghiên cứu khoa học đáng lẽ cũng phải cũng vậy, nhưng hiện
có tâm lý nghe ai nói được vài câu lý luận mới, chưa biết nếp tẻ sao mọi người
đã phục lăn, còn người ngồi nghiên cứu cho thành thục những lý luận cũ để áp
dụng cho thấu đáo bị coi thường, kết quả là kiểu làm lý luận theo lối chạy xô có cơ ngày càng phát triển. 





Một ít 
tâm sự  


      Tôi
có cảm tưởng nhiều bạn trẻ đang tập tành thành nhà nghiên cứu hiện nay muốn đi
vào lý luận. Trong khi đó thì cái vốn văn học sử mà các bạn đó có được còn rất
mỏng mảnh.


     Các bạn hình như không biết, hoặc không được ai giảng cho biết, để rồi cố không muốn biết, rằng mọi thứ
lý luận đều bắt nguồn từ sự phát triển của văn học, tương tự như mỗi giống cây lớn lên từ một mảnh đất cụ thể.


     Chẳng hạn, muốn hiểu chủ
nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa—kể cả
hiểu để từ chối nó và phê phán nó
 — thì
trước tiên phải nắm rất vững văn học xô viết và văn học các nước Đông Âu trước
1989.


     Hoặc muốn hiểu Bakhtin và thi pháp thì phải đọc cho nát cả ông Đốt lẫn các sách vở viết về Đốt, cũng như có những hiểu biết chính xác về tình trạng của khoa nghiên cứu văn học ở Nga những năm 1930.


     Gần đây, một thứ lý luận mà hồi trước bị cấm đoán nay trở thành mốt, là mảng lý luận
phương Tây hiện đại.


     Có
lần tôi được đọc một công trình nghiên
cứu của một bạn trẻ muốn đi vào khảo
sát  sự hình thành văn xuôi Việt nam ba
mươi năm đầu thế kỷ XX. Trong phần giáo đầu, tác giả trình ra những tư tưởng mà
mình dựa vào để làm việc. Người sính cái mới có thể hào hứng vì  thấy dẫn
ra toàn là  lý luận của những tên tuổi lớn trong khoa
nghiên cứu văn học thế giới:T.Todorov và R.Jakobson, Ch.Caudwell và G.
Genette….


     Nhưng riêng tôi cứ thấy những nguyên lý lý
luận kia vốn xuất phát từ văn học Tây Âu hiện đại, tốt hơn hết là để áp dụng cho
các nơi mà ảnh hưởng văn học phương Tây đã đến độ chín. Chứ đối với một số tác phẩm xuất hiện trong giai đoạn tập tành của nền văn xuôi hiện đại
vừa mới xuất hiện như văn học Việt Nam
thời Tố Tâm trở về trước, thấy nó
không hợp. Cố ép mà vận dụng nó, nào khác kẻ học làm sang.Trong trường hợp này, tôi nghĩ những lý thuyết về sự giao thoa, tiếp
biến văn hoá, và quá trình hiện đại hoá các nền văn học trung đại, nếu được vận
dụng sẽ có lý hơn. 


     Lại như việc gần đây nhân các lý thuyết
hậu hiện đại bắt đầu được dịch in, có người muốn tỏ ra thức thời đã mau mắn hô
lên rằng những tìm tòi kiểu này cũng đang xảy ra ở ta, ngụ ý ta đây chẳng kém gì người, ta đang nhịp bước cùng
thế giới. 


     Trong khi ấy, theo sự tìm  hiểu
của một số chuyên gia chín chắn, ta đang
ở vào một giai đoạn khác hẳn. 


     Lối áp dụng khiên cưỡng nói trên vốn xuất
phát từ sự non yếu trong trình độ:Ta biết ít quá, và thấy cái gì cũng hay cũng
đẹp, cũng nên học theo. 


     Song chắc cũng
không sai nếu bảo ta chưa thoát khỏi những thói quen có tự nhiều đời  truyền lại, tức là học lỏm và nhận liều.


     Trước khi áp dụng lý luận vào thực tế, cần nhớ  động cơ không đủ biện minh cho hành động và tâm huyết không làm nên hiệu quả.
Và nếu không sợ làm nản  lòng nhau, phải
nói những điều chúng ta hay mang ra khoe 
--- cái sự  tha thiết hết mình của chủ quan nhà nghiên cứu --  chỉ có một ý nghĩa rất nhỏ. 


   Ngay cả khi đã có
mong muốn chân thành và thái độ nghiêm túc, nếu không có định hướng đúng,
người ta vẫn có thể lao mình vào những công việc không mấy triển vọng, hoặc đơn giản hơn là
không đáng đặt nhiều kỳ vọng đến thế. 


    Câu chuyện của tôi là để dành cho các bạn
trẻ muốn nghiên cứu văn học thực sự, có tham vọng muốn cắt nghĩa nền văn học dân tộc cả trong quá khứ lẫn hiện tại, từ đó đóng góp vào sự vận động của văn học và xã hội trong thời gian tới. Còn theo chỗ tôi biết, khuynh hướng
làm lý luận vì lý luận, làm lý luận để chứng tỏ sự sang trọng và năng lực hội nhập mạnh mẽ của nghiên cứu văn học ở ta – khuynh hướng đó đang được nhà nước hiện nay
khuyến khích. Người đi theo khuynh
 hướng này sẽ dễ dàng trở thành giáo sư tiến
sĩ, 
 tức có địa vị và được dư luận trọng
nể.


   Với số
bạn đọc loại này – mà tôi biết là chiếm đa số trong giới nghiên cứu trẻ -- bài viết trên và lời
tâm sự cuối cùng của tôi chắc không thích hợp. Nếu các bạn loại đó đã chót vui chân theo
tôi đến những dòng cuối cùng, tôi xin có lời xin lỗi. Hẳn có những giáo sư sẽ bảo với các bạn là đừng nghe tôi xui dại.





 Nguyên
là bài tham luận trong một cuộc hội thảo


tại Viện văn học, 2004.


 Đã in
trong  Vương Trí Nhàn--Phê bình và tiểu luận 2009.


Riêng đoạn cuối mới được viết lại 7-2014








Chú thích


(1)  
Trần
Văn Giàu, Sự phát triển  của tư tưởng
ở Việt Nam
, tập I, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1973, tr. 10


(2)  

Văn Tấn,  Mấy suy nghĩ về lịch sử Việt
Nam và tư tưởng Việt Nam
, in trong Một số vấn đề lý luận về
lịch sử tư tưởng Việt Nam
,
Hà Nội,1984, tr. 29-30


(3)  
In
lại trong Hoài Thanh, Bình luận văn chương 1934-1943,  NXB Giáo dục Hà Nội, 1998, tr.184


(4)  
Huỳnh
Khái Vinh  Nguyễn Thanh Tuấn,  Bàn về khoan dung trong văn hoá,  NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr
230


(5)  

Văn Tấn Sđd, tr.33


(6)  
Trần
Văn Giàu  Sđd, tr.11


(7)  
Hồn Việt **, NXB Văn học,  Hà Nội 
2004, tr. 47-48


    
(8)   Tao đàn 1939,sưu tập
trọn bộ  hai tập, t. II, tr.803


(9) Nguyễn Bách Khoa
Nguyễn Du và Truyện Kiều, 1942, NXB Hàn Thuyên Hà Nội tr. 20. Dẫn lại
theo Đinh Gia Trinh Hoài vọng của lý trí, NXB Văn học, Hà Nội, 1996, tr.
276 




     (10)In
lại  trong Nguyễn Bách Khoa Khoa học
văn chương
,  NXB Văn  hoá thông tin Hà Nội,2003, tr.462

Thứ Hai, 21 tháng 7, 2014

"Thành thì đen kịt đốc thì lang .. " hay là sự chuyển đổi phương thức tự sự trong thơ Tú Xương

NGUYÊN ĐÂY LÀ MỘT CÂU THƠ TRONG BÀI PHỐ HÀNG SONG



Ở PHỐ HÀNG SONG THẬT LẮM QUAN,

THÀNH THÌ ĐEN KỊT, ĐỐC THÌ LANG

CHỒNG CHUNG VỢ CHẠ, KÌA CÔ BỐ ĐẬU LẠY QUAN XIN, NỌ CHÚ HÀN



 Thành  là tên gọi viên phòng thành,  chức quan chỉ huy quân sự một tỉnh, cũng như đốc học là người phụ trách giáo dục cuả tỉnh. Cả hai nằm trong hàng loạt gương mặt những con người đương thời mà Tú Xương  từng phác họa.  




      Là một ngòi bút trào phúng thực thụ và có bản lĩnh, Tú Xương thường không ngại mang chính mình ra mà chế giễu. Loạt thơ tự trào, cộng với những bài trữ tình thuần túy (loại như Sông kia rày đã nên đồng...) gộp cả lại làm nên một mảng thơ riêng, khá đặc sắc.


     Có điều, dẫu sao, trong số hơn trăm bài thơ hiện đang lưu truyền và được xác định là của tác giả, các bài thơ “hướng nội” nói trên chỉ chiếm một phần nhỏ. Ngược lại, nói tới Tú Xương, nhiều khi người ta nhớ ngay tới loại thơ khắc họa chân dung những người đương thời. Những bài “hướng ngoại” này thường nói tới một đối tượng cụ thể: một ông phủ, ông đốc học nào đó trong vùng hoặc một người bạn nào đó của tác giả. Và chúng thường có nhan đề ngắn gọn (do người sau đặt): Mừng ông lang, Chế ông huyện, Đùa ông hàn, Bỡn ông Điềm v.v…




Một phòng triển lãm


Nhận xét thứ nhất nảy sinh khi người ta đọc loại thơ này: Tú Xương có một phạm vi quan sát khá rộng. Sống trong một đô thị nhỏ nơi thoát thai từ làng xóm, ông vẫn giữ được thói quen thường thấy trong sinh hoạt tinh thần nơi thôn xã là để mắt đến mọi việc xảy ra chung quanh, và sẵn sàng lên tiếng về những chuyện ấy. Lọt vào kính ngắm thường xuyên của ông là đủ loại nhân vật, từ quan chức đến sư sãi, từ ông tú ông cử, cho đến đám học trò đang mài đũng quần trong các lớp bình văn, rồi cô ký, me tây, rồi thầy thông, thầy phán… sơ sơ có thể ước tính tổng cộng số người được Tú Xương nhắc tới trong các bài thơ đã viết lên tới vài chục. Tất cả hiện ra như các hình nhân trong một chiếc đèn kéo quân khổng lồ mà tác giả đã kỳ công vẽ mặt tô mày để kiếm chút niềm vui giữa cuộc đời tẻ nhạt.






Những nét kỳ dị


Theo sự ghi nhận của nhà văn Nguyễn Công Hoan – một người nổi tiếng có trí nhớ tốt và đã một thời gian dạy học ở Nam Định – thì hầu hết các nhân vật được nói tới trong thơ Tú Xương có địa chỉ thật ở ngoài đời. Các bài thơ đã hình thành như một cách để tác giả đánh dấu những gương mặt mà mình từng biết và phải chung sống.


Tuy nhiên, điều đó không làm hại đến ý nghĩa khái quát mà các chân dung có thể có.


Một nhận xét nữa nẩy sinh khi đọc loại thơ nhân vật của Tú Xương: trước sau bút pháp của ông là khá nhất quán. Sự hài hước được nhà thơ sử dụng như một loại “chiếu yêu kính” tức một công cụ để nhận thức bản chất con người và sự việc.

 Vấn đề không phải chỉ ở chỗ tác giả thường xuyên miêu tả những thói xấu của các nhân vật, tức vạch ra sự không bình thường của nó về mặt xã hội (quan lại tham nhũng, đốc học rong chơi, cờ bạc; sư ở tù; con cái khinh bỉ bố mẹ…). 

Mà điều quan trọng hơn, là ông biết nhìn ra cả trong mặt mày hình dáng con người cũng có sự biến dạng.


 Nếu ông chỉ nói ở cái phố hàng Song lắm quan kia, cô Bố “chồng chung vợ chạ”, ông Hàn “đậu lạy quan xin”, ta thấy đã tài, đã sắc sảo. 

Song con mắt thi sĩ nơi ông còn nhìn thấy cái nét đặc sắc mà cái nhìn xã hội học dễ bỏ qua: “Thành thì đen kịt, đốc thì lang”.

 Trong một dịp khác, ông tả người bán sắt “Mũi nó gồ gồ, trán nó giô”, cũng như ông không tha cả chính mình “Mắt thì lao láo, mặt thì xanh”.

 Những câu thơ hơi khang khác này xui người ta nghĩ rằng hình như trong tiềm thức, tác giả bắt đầu cảm thấy rằng sự méo mó lệch lạc là nằm tận trong bản chất con người đương thời. Đây nữa, những câu thơ tả sự dở dang, bất cập, một thứ nửa dơi nửa chuột tiên thiên bất túc không sao sửa chữa nổi trong con người đương thời, đại loại:


- Hán tự không biết Hán


  Tây tự chẳng biết Tây


- Nghêu ngao câu hát nửa tàu nửa ta


- Chẳng phải quan mà chẳng phải dân


- Ấm không ra ấm, ấm ra nồi.


Như các nhà nghiên cứu nghệ thuật đã lưu ý, nét đặc biệt của nghệ thuật hiện đại (rõ nhất là trong hội họa) ấy là thiên về miêu tả con người với những nét kỳ dị, hình ảnh méo mó, không những không ăn khớp với những khuôn mẫu sẵn có, mà còn thường xuyên có hiện tượng phân thân, và không tạo ra một sự ổn định, không có những đường viền rõ rệt. Do những hạn chế của thời đại và của bản thân, đương nhiên Tú Xương chưa thể có được một tư duy nghệ thuật mới lạ như vậy.

 Những câu thơ trên chỉ được viết ra một cách tự phát.

 Song đọc Tú Xương, người ta vẫn không khỏi liên tưởng tới một quan niệm về con người mới mẻ -- chưa xuất hiện ở  thời của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du --  những quan niệm về con người chỉ xã hội hiện đại mới có. Đây chỉ nói về quan niệm; còn như mỗi tác giả đạt tới mức sâu sắc và độc đáo như thế nào trong quan niệm của mình, thì đấy lại là chuyện khác.






Sự phá cách


Mặc dù chỉ sống được hơn 7 năm trong thế kỷ XX, Tú Xương vẫn đáng được xem như một nhà thơ có cốt cách hiện đại. Cảm giác hiện đại chủ yếu hình thành qua ấn tượng về con người tác giả, một người làm thơ không phải để nói chí hoặc giáo hóa ai mà chỉ cốt phơi bày cho hết những bức xúc chộn rộn trong lòng mình; con người ấy gần như đánh mất sự quân bình vốn có, ngược lại lúc nào ông cũng sống trong trạng thái “ngồi không yên ổn đứng không vững vàng” luôn luôn bị ám ảnh bởi những ham hố trần tục.


Có điều “mình với ta tuy hai mà một” (thơ Tản Đà), con người tác giả trong thơ Tú Xương thế nào thì các nhân vật được ông phác họa cũng vậy.


 Xưa nay đã nhiều người tả cô đầu, song chỉ đến Tú Xương, loại người tưởng là dưới đáy xã hội này mới dám lớn tiếng tuyên bố “Cũng liều bán váy chơi xuân”

Nghe thật trâng tráo nhưng bên trong có gì đó chua chát, bi phẫn, nó là cái tâm trạng đến với người ta khi cuộc sống chung quanh đã trở nên bẩn thỉu quá mà bản thân không biết làm gì để thay đổi nó.


 Cái tâm thế của người cô đầu Tú Xương diễn tả ở đây sẽ là tâm thế mà càng về sau càng phổ biến, và con người thời sau, dù làm bất cứ việc gì, trước những bất lực phải chịu, cũng muốn văng ra những câu tương tự.





Chẳng những quyết liệt trong thái độ sống, Tú Xương còn quyết liệt trong các ứng xử nghệ thuật.  


Thời ông sống là thời trong văn chương Việt Nam còn đang ngự trị các quy phạm cổ điển. Thơ ca Việt Nam phải gần ba chục năm sau mới biết đến phong trào Thơ mới, nên gì thì gì, Tú Xương cũng chỉ có cách trổ tài qua thơ Đường luật. Song bản lĩnh và ý chí tự do của nhà thơ non Côi sông Vị là ở chỗ, trong khi bị gò bó bởi thi luật cổ điển, Tú Xương vẫn tìm đủ cách để công phá nó. Một ví dụ: bài thơ mang tên Bỡn ông Điềm.


Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà


Trước nhà có miếu có cây đa


Cửa hè sân ngõ chừng ba thước


Nứa lá tre pheo đủ một tòa


Mới sáu bận sinh đà sáu cậu


Trong hai dinh ở có hai bà


Trông ông mốc thếch như trăn gió


Ông tốt duyên vì có nước da


Cũng giống như nhiều bài thất ngôn bát cú của Xuân Hương, bài thơ này, tuy bề ngoài vẫn giữ được sự đăng đối (câu ba đối câu bốn, câu năm đối câu sáu) song đó là một sự đăng đối trời cho, người ta cảm thấy tác giả không cần một chút cố gắng. Trong khi ấy mạch đi của cả bài thơ quá tự nhiên, hầu như gặp đâu nói đấy, những ràng buộc thừa-phá-đề-luận-kết… bị để sang một bên, hai câu cuối giống như một miếng bỏ nhỏ khá gây ấn tượng.


Nhất là về mặt mỹ cảm thì sự phá cách càng rõ rệt, cái chi tiết mốc thếch như trăn gió quá đậm chất văn xuôi, cũng như giọng thơ nửa thân tình nửa giễu cợt, tất cả làm cho sự vật con người mất hẳn cái vẻ cao thượng, thuần khiết, vốn được coi là nét tiêu biểu của thơ ca cổ điển.






Đã in Cánh bướm và đóa hướng dương, 1999










 Viết thêm 22-7-2014


Thỉnh thoảng tôi hay trở lại với những bức ảnh chụp chân dung con người hoặc những đám đông trong thời gian năm bảy chục năm trước. Tự nhiên cứ cảm thấy sao mặt người xưa thường hiền lành phúc hậu, chứ không đằng đằng sát khí và đầy ham muốn tà tâm  muốn tự bộc lộ như con người thời nay.


 Và tôi nghĩ đến tình trạng lay lắt của các nhà văn.


 Khi đối diện với xã hội đương đại, các đồng nghiệp của tôi phân hóa làm hai dạng.

 Một số thường chỉ lo nịnh bợ con người.

 Một số khác – đây tôi muốn nói những cây bút còn có lương tâm nghề nghiệp -- tính chuyện phân tích phê phán sự suy đồi xuống cấp mà con người hiện đại đang trải qua. Họ sẵn sàng lớn tiếng. Họ nghĩ, bằng cách đó tác động vào xã hội, dọn đường cho con người hiện nay  vượt lên mình, tự từ bỏ cái ác trong mình.


 Nhưng những tác động đó xem ra chưa hiệu quả bao nhiêu, con người đương đại từ các quan chức nhà nước đến người dân thường hôm nay xem ra đã quá lỳ lợm, đối tượng của văn học hiện nay chừng như đã  nhờn thuốc, nghe rồi để đấy.

Chân dung con người hiện đại cần được biểu hiện bằng những bảng mầu mới. Khái quát hơn, chúng ta phải có những nguyên tắc miêu tả mới dựa trên những nguyên tắc mỹ học hiện đại.


 Một chút khác đi trong phương thức tự sự sử dụng trong thơ Tú Xương ở đây là câu trả lời mà các thế hệ người viết văn trước đã tự phát đi tới. 


 Đến lượt mình, nhà văn ngày nay phải đi tới nó một cách tự giác. Tức là trải qua bài bản nghiên cứu một cách khoa học và có sự tham khảo hướng phát triển của văn học thế giới.






Có một nhà văn hiện đại cũng đã dùng những phương tiện biếm họa kiểu grotesque để miêu tả đời sống đương thời. Chúng tôi đã nói tới điều này trong bài Sự biến hóa của chất nghịch dị trong truyện ngắn Nam Cao trước 1945 -- cũng tức là bài Nam Cao và chủ đề  sự bất lực trước kiếp sống mòn, in trên blog này  6-1-2011.


So với  Nam Cao thì việc xử lý phương thức ở Tú Xương đơn sơ mộc mạc hơn.


Nhưng ta nhớ, Tú Xương sống trước Nam Cao gần nửa thế kỷ, khi mà xã hội và văn học còn đang ngổn ngang trong một thời kỳ chuyển đổi còn Nam Cao thì sống ở một thời đại đã chín, thậm chí chín quá hóa thành nẫu nà hư hỏng.




Bài học của cả hai người là những gợi ý tốt cho những người viết văn hôm nay. Hoặc là phải nâng mình lên, phải tự khác đi. Hoặc là cứ sống ngắc ngoải như ta đang sống rồi ôm nhau nỉ non than thở trách móc. Rằng không ai đọc mình. Rằng nhà nước đã nhận nuôi như một lũ báo cô, nuôi để làm cảnh, mà vẫn để mình rạc dài đói khát.

Thứ Năm, 17 tháng 7, 2014

Thích ứng đồng nghĩa với hư hỏng thoái hóa biến chất





Người ta chỉ hay nói  khủng
hoảng kinh tế  giá cả leo thang
ảnh hưởng
tới sinh hoạt hàng ngày của người dân.


Nhưng không khó gì để nhận ra rằng
sự nghèo đi cũng đồng thờì làm cho
con người hèn đi, cuộc thích ứng mà
người ta phải chịu đựng đã là nguồn gốc của mọi hư hỏng thoái hóa mà con người hiện
đại bộc lộ.




 Và trước sau điều bi đát nhất sẽ tới, xã hội
và con người mất hết khả năng tái cấu trúc, khả năng sáng tạo ra một tương lai
tốt đẹp hơn…




Khi tất cả hàng hóa tăng giá có nghĩ con người đang bị hạ giá.




Nội dung trên đã được tôi trình
bày trong bài viết Thích ứng để tồn tại,
đã in
 trong Những chấn
thương tâm lý hiện đại
(2009) và đưa trên blog này ngày 4-12-2010. 


Sau gần bốn năm, nay lại xin kính trình
để bạn đọc tham khảo.




Đã lâu lắm rồi hôm ấy, Dần, nhân vật chính trong truyện ngắn Một đám cưới (Nam
Cao viết năm 1944) mới có cái quyền đi chợ. Chẳng qua là nhân ngày cưới của cô.
Ông bố dặn mua lấy hai xu chè. Cô gái trả lời hai xu bây giờ ai bán. Và cô thẽ
thọt nói thêm: 


-- Ông lão cả đời không đi chợ, cứ tưởng chè rẻ lắm. Quen với ngày xưa, độ một
xu một ấm. Bây giờ năm xu, nấu đặc chỉ được một ấm là hết xoẳn.

Có thể xem đây như bằng
chứng đầu tiên về tình trạng giá cả leo thang trong xã hội mà văn chương có dịp
ghi nhận.



Hoá ra từ hồi nào, nền
kinh tế ở xứ này đã là một cái phao bập bênh và những thay đổi tận đâu đâu trên
thế giới đã ảnh hưởng ngay đến người dân thường ở những vùng đất xa xôi hẻo
lánh bậc nhất.


Trước tình trạng gần như
không thể kiểm soát nổi ấy, người ta bàn đến cách đối phó.


Tôi đồ chừng hàng ngày,
trong các gia đình, trong các nhóm bạn bè ngồi quán tán gẫu, và trong đầu óc
từng người nữa -- như là có hàng ngàn hàng vạn cuộc hội thảo nho nhỏ diễn ra
liên tục, ở đó mọi người nhao nhao đăng đàn diễn thuyết trao đổi ý kiến.


Than phiền, kêu la.


Ngậm ngùi lo lắng.


Bảo nhau phải thắt lưng
buộc bụng...




Riêng tôi thì lại hình
dung ra một loại kịch bản khác.



Một số người … mặc kệ. Họ tự nhủ:



--- Dễ người dễ ta, khó người khó ta.

--- Rồi sẽ có cách, không chết được mà sợ. Nếu gặp khó mà chết thì chúng mình
chết từ hồi tám hoánh nào rồi !

-- Anh nào biết cù nhầy là anh ấy sống.

Con người nơi đây vốn quen thích ứng với mọi hoàn cảnh. Kẻ thông minh là kẻ
không biết sợ. Các quyết định mới được hình thành nhanh lắm.

Giả sử như tôi đang có một cửa hàng thuốc tây.

Có mà ngớ ngẩn thì mới sợ rằng thuốc nhập giá tăng rồi không ai mua. Còn có
người ốm thì còn có người cần thuốc, mà lúc cái bệnh nó đã thúc vào lưng thì
giá cắt cổ vẫn cứ phải xì tiền ra.

Vậy thì giá nhập tăng một, ta tăng hai ba, và như vậy chuyện cân thịt, lít xăng
leo thang có ăn nhằm gì, không chừng lại là một cơ hội đẹp để ta hốt của.

Ấy cái khó ló cái khôn chính là như thế.





Sự thông minh tính toán kiểu ấy
không phải độc quyền của dân buôn thuốc. Một người đã nghĩ được, thì mọi người
ở mọi ngành nghề đều có thể có ý nghĩ tương tự.

Ai nấy dường như có thêm động cơ để mạnh tay hơn trong những việc lâu nay còn
vừa làm vừa run.

Các nhân viên kiểm lâm yên tâm hơn trong việc thông đồng với đám lâm tặc nhằm triệt
phá rừng.

Dân hải quan hoặc thuế vụ có cớ để tự nhủ rằng “ không vòi vĩnh ai sống nổi ”?

Nhà khoa học khua nốt mấy công trình nghiên cứu dang dở mang nghiệm thu, để còn
kịp xin kinh phí đợt mới.

Bất chấp sự tăng tốc của mọi người, bác trông giữ xe máy tự lúc nào đã nhẹ
nhàng tăng giá từ một ngàn lên thành ngàn rưỡi hai ngàn.

Còn người nông dân tự do thì không có gì phải hối hận trong việc chiếm dụng đất
đai ven các quốc lộ, kéo nhau đi đào vàng hoặc khai thác than thổ phỉ, rồi tràn
vào thành phố cân điêu cân thiếu khi đạp xe bán rong một vài mặt hàng, kể cả
bán những thứ hoa quả có phun thuốc sâu vượt quá nồng độ cho phép...





Tạm thời có thể mô hình hoá thành
mấy cách phản ứng:

1/ người sống bằng gian dối có cớ để gian dối.

2/ người tham nhũng hợp pháp hoá được việc ăn cắp của mình.

3/ người sản xuất không cần phân vân khi đưa ra hàng kém hàng hỏng.


Mỗi người có thêm lý do để hạ thấp chất lượng cuộc sống mà mình có tham gia.
Không ai còn thấy chướng khi sự tồn tại của bản thân được đặt cao hơn lợi ích
xã hội.

Một nhân vật trong Anh em Karamazov của Dostoievski từng bảo “ Sống
trong bất cứ hoàn cảnh nào, đó là truyền thống của họ Karamazov nhà ta.” Không
phải người Nga, nên không quen khái quát thành công thức trừu tượng, nhưng
trong bụng nhiều người Việt mình hôm nay đã tự nhủ thầm như thế.





Điều dự đoán cuối cùng của tôi: Ngay
cả các đám ăn nhậu rồi ra cũng đông vui hơn.

Muốn chống lại tình trạng giá cả leo thang mà không ăn uống cho no say thì lấy
đâu ra sức hở trời?

Mỗi lần tan cuộc là một lần sảng khoái, trong bụng chỉ còn có cách tự nhủ thời
buổi này tiết kiệm làm gì, không hưởng thụ ngay bây giờ thì có nghĩa không bao
giờ ta được hưởng thụ cả !

Trong cuộc nhảy múa để tồn tại, một thứ men say của hiện sinh tràn đến tự lúc
nào làm cho người ta ngây ngất. Cái sự thụ động mà cô Dần của Nam Cao xưa chấp
nhận đã thuộc về một dĩ vãng quá xa; giá kể có sống lại, chắc nhân vật ông bố
trong truyện Một đám cưới sẽ phải mấy lần lắc đầu le lưỡi:” Èo ! mẹ ơi
!..“












Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014

Tô Hoài và những nghiêm chỉnh của kiếp phù du

                                                                                   I



     Mấy năm từ 1992 đến 1996, do công việc ở một đề tài khoa học, gần như hàng tuần tôi đều có dịp phải gặp và làm việc với nhà văn Tô Hoài. Ấn tượng còn lại ở tôi,  đây là một người có cách sống cách làm việc phù hợp với nghề, do đó, đời cầm bút thật bền mà cũng thật hiệu quả. Sau hơn 50 năm lao động chữ nghĩa, con người đó vẫn làm việc đều đặn tưởng như có viết vài chục năm nữa cũng không hết việc.




     Kể ra đã ngoài 70, đâu ông còn khoẻ như thời mỗi đêm lia xong một truyện ngắn nữa!Thỉnh thoảng đã triệu tập chúng tôi đến họp rồi, ông lại gọi điện bảo hoãn. Khi thì cái chân ông giở chứng. Khi thì máu lên huyết áp. Nhưng nếu Tô Hoài khoẻ mạnh bình thường, ông khá nghiêm túc.


      Thông thường trước giờ họp ông đã có mặt, trò chuyện linh tinh với mọi người. Về phần mình, chúng tôi cũng muốn nghe chuyện ông trước khi vào việc.

      Chuyện ông mang đủ vui  buồn của sự đời, không  nghe chỉ thiệt, nên anh chị em có thói quen đến sớm, góp chuyện. Còn như nếu có đến họp muộn, chúng tôi cũng không phải quá lo lắng, bởi Tô Hoài là loại “sếp” biết thông cảm với nhân viên, ông hiểu rằng luôn luôn, người ta có muôn ngàn lý do để đi chậm, để dề dà ngần ngại trong công việc, thôi, loanh quanh thế nào cũng xong, cứ thủng thẳng mà làm, có sốt ruột cũng chẳng được.


      Thế còn Tô Hoài nói gì trước khi họp? Đủ thứ!


      Chuyện bên hàng xóm, người ta xây những ngôi nhà to vật to vã, thành thử nhà ông, cái nhà mua bằng nhuận bút kịch bản phim Vợ chồng A Phủ, đang khang trang rộng rãi, tự nhiên trông như túp lều, có lẽ phải gọi bán.


       Chuyện đi ăn phở bây giờ nhiều người còn thích đập thêm quả trứng vào, có biết đâu một người như cụ Tuân, cả đời chỉ ăn phở bò chín. À cửa hàng nọ chuyên bán cho dân rực của lại còn sáng chế ra thứ phở thịt nạc băm viên như viên mọc, ở Hà Nội xưa nay không ai ăn thứ phở táp nham vậy.


         Chờ xe cùng với chúng tôi bên đường, Tô Hoài chỉ cái cống nước đen ngòm đang chảy:


       - Hồi trước, nhà nào để thế này đội xếp nó phạt chết.


        Đá sang chuyện dạo này người ta đi hội nhiều, ông than phiền:


      - Cứ như tôi nhớ vùng Bưởi hồi trước, không phải làng nào cũng có hội. Tế lễ ở đình thì mọi làng đều làm, nhưng mở hội tức là góp mặt với thiên hạ. Phải thế nào, người ta mới đến xem cho chứ tưởng dễ hẳn. Để ý mà xem, bây giờ nhiều đám rước người đi rước đông hơn người đi xem. Đấy là điều trái ngược và xấu hổ.


        Dông dài mà thiết thực, chuyện của Tô Hoài là chuyện của người đang sống đang lo toan vui buồn về cái hàng ngày, như mọi người khác. Chả thế mà trong những thiên truyện như Con ngựa, những thiên tuỳ bút như Tình tình gió bay... hoặc các chân dung viết về Nguyễn Văn Bổng, Trọng Hứa... mới in gần đây, Tô Hoài có thể mang vào đó đủ thứ chi tiết linh tinh của “thời mở cửa” mà người ta khó nghĩ là một ông già bảy mươi lại có thể còn để ý tới.


        Sau thời bao cấp, không ít nhà văn lúng túng. Con người bây giờ nhộn nhạo quá. Trong lúc lao đi kiếm sống, cá nhân trở lại cái tự phát nguyên sơ của mình và vận động không theo khuôn phép nào cả.


       Đỗ Chu ngơ ngác nhìn Mảnh vườn xưa hoang vắng; Nguyễn Khải than thở cho Một thời gió bụi.


       Về phần mình, Tô Hoài có vẻ như không chút ngạc nhiên. Đã già từ lúc còn trẻ, nay về già ngòi bút ông như trẻ lại. Ông vẫn đi họp, làm báo, chủ toạ hội nghị, và lại viết khoẻ. Nhiều lần tôi đã tự hỏi, vì sao Tô Hoài lại có được sự trẻ khoẻ dẻo dai như vậy?


       Ở đây, hẳn có những phần thuộc về sự rèn luyện của ông, lâu ngày thành một thói quen không cần cố gắng. Và trước bao thay đổi hàng ngày, con người ông vẫn dễ dàng thích ứng. Vũ Quần Phương có lần nói, đại ý: tìm hiểu về Tô Hoài, là cả một thách thức thú vị.


        Những ai có dịp cùng làm việc với Tô Hoài đều có cái bỡ ngỡ và háo hức tương tự.


        Được cái, trong việc này chúng tôi có một thuận lợi là Tô Hoài rành mạch: Trong khi vẫn giữ cho mình một thế giới riêng tư, ông không quá khép kín và đẩy mọi người ra xa, để gây ấn tượng. Mà ông cũng không tạo ra vẻ cởi mở giả tạo, cốt lấy lòng ai.


        Đôi khi, ông ngồi uống bia hay uống rượu quán bờ hè. Đội cái mũ che cái trán quá hói, ai hỏi thì bảo trước làm nghề kế toán, về hưu đã lâu như vậy dễ chuyện hơn. Một lần ở quán rượu cụ Xưởng phố Nguyễn Khuyến, người con ông cụ đến thăm bố, nhận ra ông là nhà văn. Vì anh ấy làm giáo viên, đã gặp ông đâu đó. Thế là những lần sau, lần nào cụ Xưởng cũng đem bản thảo dịch thơ Lamartin của cụ đọc cho ông nghe và yêu cầu góp ý kiến.  Tô Hoài lủi dần.


       Ông thường sống đúng như ông có, biết lui biết tới, biết lẩn tránh, nhưng cũng biết đối mặt trước mọi sự tọc mạch. Mẩu chuyện sau đây minh chứng cho điều đó.


              Dế mèn lưu lạc mười năm


              Để O chuột phải ôm cầm thuyền ai


              Miền Tây sen đã tàn phai


              Trăng thề một mảnh lạnh ngoài Đảo hoang.


        Đấy là mấy câu tả chân dung Tô Hoài của Xuân Sách. Trong khi chơi trò ghép các tác phẩm của Tô Hoài lại thành vần, người viết chân dung vẫn làm toát ra được chút cám cảnh về một cuộc đời buồn buồn, đơn độc.


       Hồi đó là vào khoảng 72-73 gì đó, tập chân dung sau này sẽ gây ra nhiều tai tiếng của Xuân Sách chỉ vừa mới thành hình được những bài đầu tiên. Một trong những người có tham gia vào khâu bếp núc những bài thơ ấy là Nguyễn Khải, cây bút có những lúc khá hiếu động, thành thử mặc dù đã bảo nhau là chỉ làm chơi thôi, song vẫn cứ táy máy, muốn đi đây đi đó, kháo với mọi người.


       Cho đến lần ấy, nhân buổi chiêu đãi ở nhà xuất bản nọ, có mặt cả mấy nhà văn cỡ bự,  Nguyễn Khải liền tính chơi trò vỗ mặt, đọc thẳng cho các vị ấy  nghe.


        Trước những lời rào đón của Nguyễn Khải, nhà văn Nguyễn Đình Thi ra vẻ xởi lởi:


        - Đọc đi xem nào, cái lối viết anecdote này, nước nào chẳng có?


         Tô Hoài thì dè dặt hơn, chỉ mủm mỉm cười, như có vẻ không tin mà lại như có vẻ chờ đợi.


         - Tính cách mình hơi khó nắm bắt đấy!


         Thế là cánh cửa đã mở. Nguyễn Khải vừa đọc, vừa thăm dò phản ứng. Quả nhiên trận lôi đình nổi lên, nhưng Nguyễn Đình Thi đành cố kiềm chế, chỉ nghiêm mặt hỏi:


        - Loại thơ này có lợi cho ai nhỉ ?


         Đến lượt Tô Hoài, nghe được ba phần tư bài thơ, Tô Hoài đã xua xua tay:


       - Thôi đủ rồi! Thế là biết tài nhau rồi.


        Và ông lảng sang chuyện khác.


         Cái đáng quý của Tô Hoài trong trường hợp này cũng như nhiều trường hợp tương tự là sự sòng phẳng và biết lui biết tới. Ông không đặt mình cao hơn mọi người. Ông hiểu rằng, đã gọi là nghề văn, cái sự chế giễu khích bác nhau là không khỏi xảy ra hàng ngày, và mình không phải là một ngoại lệ. Mình có thể là một nhà văn nổi tiếng, là cán bộ phụ trách Hội. Nhưng đấy là khi vào các buổi họp, còn ở đây, trong câu chuyện bên bàn tiệc, mọi người bình đẳng, và nếu như có ai đó lỡ lời nói quá, thì nên quên ngay cho được vui vẻ.


       Ở Tô Hoài, sự thoả hiệp đã thành một thói quen thường trực.


        Sau hơn một tháng dự trại viết cho thiếu nhi ở Đại Lải, Nguyễn Minh Châu rút ra một nhận xét về Tô Hoài. Là ông này không bao giờ  muốn đối lập với người đang trò chuyện với mình, bao giờ ông cũng nhanh chóng tìm ra cách hoà hoãn.


        Còn theo nhận xét của Phan Hồng Giang, thì chính ra ông là người thích lẩn trốn vào một chỗ vắng, làm nhoà mình đi, trong những hoàn cảnh không cần thiết.


        Dù sắc sảo đến đâu, mọi ý tưởng của ông đều được nói ra một cách từ tốn. Cái sự tồn tại trong đời của ông là nhởn nhơ bảng lảng. Ông thường nói đùa: dong chơi có trách nhiệm và bổ ích.


        Giữa đám chúng sinh nhợt nhạt, bản sắc riêng của ông không hằn lên, khắc lên như Nguyễn Tuân mà ông đã để cả cuốn Cát bụi chân ai để miêu tả. Ông lại càng không cố ý kềnh càng giữa đời như cụ Nguyễn.


         Nên đúng là hơi khó nắm bắt.


        Nhưng bảo là ông không có cái riêng là không đúng.


        “Ô hay, người ta ra người ta thì phải là người ta đã chứ” - ai đọc Cát bụi chân ai, làm sao quên được cái câu lý sự rất Tô Hoài ấy!


         Một lần, trong lúc vui chuyện sau một bữa ăn, một người chợt nhận ra là nét mặt Tô Hoài sao hao hao giống như ông Võ Chí Công, một nhà hoạt động xã hội, ảnh vẫn thường thấy trên mặt báo. Tô Hoài không cần suy nghĩ, nói bằng giọng bông đùa mà có ngụ ý khiến chung quanh cùng cười:


        - Sao lại bảo là tôi giống ông ấy, phải nói ông ấy nhang nhác giống tôi mới đúng.


      Lần khác, khi ra cửa sân bay Nội Bài, đáp lại tiếng reo của một cô gái trẻ: “A! Bác Tô Hoài! Bác viết Dế mèn phiêu lưu ký đây mà”, ông chỉ tủm tỉm không nói gì. Nhưng đi một quãng, Tô Hoài ghé tai bọn tôi nói nhỏ:


      - Chẳng phải nó đọc, mà bố mẹ nó đọc, ông bà nó đọc ấy chứ!


        Biết mình biết người; tận hưởng ưu thế của một nhà văn nổi tiếng giữa đời thường, song lại biết điều, phải chăng trong cư xử; khi không cần thiết thì sẵn sàng tránh sang một bên nhưng không việc gì là qua khỏi mắt, và khi cần, lại diễn rất tài cái vai đang phải đóng - Tô Hoài là vậy.


        Trong lúc thân tình một lần Nguyễn Khải nửa đùa nửa thật tâm sự với tôi: “Các bố trẻ bây giờ không quen nổi tiếng, nên vừa được người ta để mắt tới là cong cớn hợm hĩnh trông rất buồn cười. Chỉ một số cáo già trong nghề đã quen với sự nổi tiếng, mới biết làm sao mình vẫn là mình trước sự trầm trồ ca tụng của thiên hạ. Có phải dễ mà biết sống trong sự nổi tiếng đâu!”.


       Lúc nói câu này, Nguyễn Khải không chỉ cụ thể một ai, và có lẽ Nguyễn Khải rút kinh nghiệm từ mình là chính. Nhưng mỗi lần nhớ tới cái nhận xét thần tình ấy, tôi lại liên hệ ngay tới tác giả Dế mèn phiêu lưu ký.





                                                                        II


        Mỗi nhà văn đến với nghề nghiệp bằng một con đường riêng và sẽ tồn tại trong nghề theo những phong cách riêng. Song ở các nhà văn có thể gọi là thành đạt, -- những nhà văn có một cái tên mà đọc lên, nhớ ngay được -- người ta thường nhận ra một nét chung. Ấy là, những độc đáo trong tính cách, trong số phận,  khiến cho họ gần như nhất thiết phải làm nghề ấy, mà không thể làm nghề khác.


        Tô Hoài là một ví dụ về cái sự gần như nhất thiết ấy.


        Dù là chỉ tính ang áng theo kiểu Việt Nam, thì nhìn vào tuổi nhỏ Tô Hoài, không ai tìm thấy một sự chuẩn bị hoặc một bệ phóng nào cả.


        Đúng như ông đã viết trong Cỏ dại Tự truyện, ông thường kể với tôi là gia đình bên nội bên ngoại ông nghèo lắm, đến sinh ngày nào con cháu cũng không biết.


        Chơi đùa chạy nhảy là trên cánh đồng Nghĩa Đô; đi học là ở trường làng và các vùng ngoại ô lân cận; người dắt ra làm quen với phố xá Hà Nội là các dì, các mợ - sự lớn lên của Tô Hoài lúc đó dựa hẳn vào bên ngoại.


       Song dựa vào để lấy chỗ làm ăn, chứ mấy quyển truyện nôm của các nhà in sách phố hàng Gai, quyển Kiều truyền tay giữa bạn bè, hoặc mấy quyển sách dịch của tủ sách Đông Tây tư tưởng mà anh thợ cửi Nguyễn Sen mượn ở nhà các ông trưởng bạ, hộ lại làng quê để đọc những lúc rỗi... những sự chuẩn bị vẩn vơ ấy đâu đủ là bảo đảm chắc chắn để con người này đến với nghề cầm bút.


       Có điều càng thấy rằng sự chuẩn bị của gia đình và xã hội cho Tô Hoài vào nghề vẫn là quá sơ sài, người ta mới càng hiểu hơn cái phần năng khiếu to lớn, nó khiến cho Tô Hoài chỉ trong nghề này mới tìm thấy sự thích thảng thoải mái.


        Nhân ngẫm nghĩ về sự đời, trong một lần vui chuyện, Tô Hoài nói với tôi cái điều có lẽ ông đã chiêm nghiệm từ lâu:


      - Không có cách mạng 1945, chắc ông Thi sẽ ra làm quan (khoảng 1943-1944, Thi từng theo học trường luật, nơi chuyên đào tạo luật sư, tri huyện). Mà không có cách mạng chắc ông Bổng đi làm giáo sư. Chỉ có mình, không có cách mạng chắc vẫn đi viết văn.


      Cũng cái ý ấy, song Tế Hanh có cách nói khác.


       Có mặt trong buổi lễ mừng thọ Tô Hoài 70 tuổi, đặt bên cạnh bao nhiêu lời chúc tụng ồn ào, Tế Hanh chỉ bảo rằng Tô Hoài sinh ra để viết, đại khái giống như, tuy ở một tầm cỡ khác, nhưng P. Picasso cũng sinh ra để vẽ.


       Sự so sánh đã được giới hạn, nhưng chắc chắn, đó là một lời khen tuyệt vời mà người cầm bút nào cũng mong mỏi và với Tô Hoài lại vẫn là một lời khen đích đáng. Có cảm tưởng như bao nhiêu kinh nghiệm hàng ngày, trước sau đều được nhà văn đưa hết vào trang giấy.


      Ông sống để viết và phải viết, như phải ăn phải uống. Không phải ông chỉ ỷ vào cái năng khiếu sẵn có. Ngược lại ông biết gây dựng cho sự nghiệp của mình, như chăm một cái cây, cho thân nó cao, lá nó xanh, tán nó rộng. Và ông biết nuôi tài năng ấy, bằng cuộc sống quanh ông, chứ không tìm ở đâu khác.


      Điều này diễn ra trong suốt cuộc đời làm nghề của Tô Hoài.


      Hơn nửa thế kỷ trước, khoảng 1942-43, sau khi Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng được in ra, Vũ Ngọc Phan có viết trong Nhà văn hiện đại rằng ông có cảm tưởng được đọc một cuốn sách in ở bên Anh bên Nga. Là vì tự truyện của Nguyên Hồng thực quá. Bằng một giọng kể run run cảm động, người thanh niên Nguyên Hồng lúc đó dám dãi bày trên mặt giấy những sự việc mà trong câu chuyện riêng với nhau, người ta cũng phải giấu.


      Cũng thời gian này, Tô Hoài viết Cỏ dại (in lần đầu 1944) một cuốn hồi ký có cách viết, cách nhìn đời tương tự như quyển tự truyện của Nguyên Hồng. Sau khi trổ tài quan sát và trình bày nhiều ý nghĩ sâu sắc trong Dế mèn phiêu lưu ký, đến đây, ngòi bút Tô Hoài như đằm xuống.


       Nếu ở Những ngày thơ ấu, người ta được nghe chuyện trốn học, chuyện đánh đáo ăn tiền, thì ở Cỏ dại hết chuyện cậu bé chốc đầu, được ông ngoại lấy nước điếu chữa ra sao, lại chuyện từ nhà quê lên phố chờ đi học, sống ít ngày không đâu vào đâu, rồi ngơ ngẩn vẫn hoàn ngơ ngẩn.


        Trước mắt chúng ta là một cuốn phim quay chậm ghi lại chuỗi ngày tầm thường nhạt nhẽo của một đứa bé tinh quái, lêu lổng. Phải một ngòi bút tự tin lắm mới dám đưa những chuyện đó lên mặt giấy. Nhất là đưa ra sao khiến khi đọc, người ta có thể cảm động đến ứa nước mắt thì chỉ loại Tô Hoài, Nguyên Hồng mới làm nổi.


      Những cái nhếch nhác, nhất là những cái xấu xa nhảm nhí mà Nguyễn Công Hoan hoặc Vũ Trọng Phụng nói tới trong văn các ông là những gì ở ngoài các ông và các ông thường nhìn chúng căm ghét khinh bỉ. Nhà văn đứng cao hơn hẳn điều mình miêu tả.


     Đọc văn Nguyên Hồng cũng như Tô Hoài, thấy sự nhếch nhác là ở ngay đây, bên cạnh nhà văn, trong chính bản thân kẻ viết văn, và việc cầm bút lúc này giống như một sự giải thoát.


      Tôi biết là tôi sống giữa xấu xa dơ bẩn như mọi người. Mọi chuyện không thơm tho đẹp đẽ gì. Nhưng tôi chấp nhận. Và riêng việc được viết nó ra đối với tôi đã là một điều hào hứng.


      Cái sự chủ động trong bị động này ở Tô Hoài đã thành một thứ bản lĩnh thường trực.


      Ngoài chuyện giúp ông dám viết, nó còn giúp ông vững vàng ở một lĩnh vực cần thiết cho viết lách tới mức thiếu đi không viết nổi, đó là sự quan hệ với người trong giới và sự tự học.


      Giờ đây, có dịp lùi xa hơn nửa thế kỷ, văn học 1932-45 đối với chúng ta là một cái gì thuần nhất, và những tên tuổi như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, rồi quá nữa, Khái Hưng, Nhất Linh có đặt bên cạnh Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Bính thì cũng là sự tự nhiên, họ là thuộc về cùng một thời đại.


      Nhưng hãy thử đặt mình vào địa vị Tô Hoài, ở cái điểm khởi đầu, là quãng năm 1940 khi mà anh thợ cửi Nguyễn Sen bắt đầu gửi bài tới các báo, báo nào cũng gửi, và đến khi có truyện ngắn Mê gái - sau đổi là Chú gà trống di - in ở báo Chủ nhật, đến muốn đòi tiền, thì người ta chỉ gọi nhau chạy ra xem, chứ tiền không trả.


       Bấy giờ, khoảng cách giữa một nguời dân ngoại thành, học chưa hết tiểu học, với đám nhà văn nhà báo đã học hết thành chung, tú tài, khoảng cách ấy là xa vời đến mức làm người ta rợn ngợp và không đám nghĩ tới nữa.


     Ấy thế mà Tô Hoài không nản. Mới quen với nhà văn Vũ Ngọc Phan do mấy truyện ngắn đăng trên báo Hà Nội Tân văn ông đã lân la định nhờ tác giả Nhà văn hiện đại giới thiệu để xin thẻ Thư viện quốc gia và khi không được, thì đến ngay thư viện của gia đình Vũ Ngọc Phan, để mượn sách bù vào chỗ thiếu ấy vậy.


     Quen Vũ Bằng cũng một phần là để học nghề, để mượn sách, bởi vậy mấy chục năm sau, Tô Hoài còn nhớ đến cuốn Phố mèo câu cá của nhà văn Rumani gốc Hung, mà Vũ Bằng đã cho Nam Cao và Tô Hoài mượn, rồi vài hôm sau cho anh xe lên đòi.


      Đời sống đã đẩy Tô Hoài đi viết văn, những lại chỉ cho ông năng khiếu mà không cho ông kiến thức sách vở. Để bù vào chỗ thiếu sót ấy ông đành tự học suốt đời. Giới văn học đã quá quen với chuyện thượng vàng hạ cám cái gì cũng đọc của Tô Hoài, song đến lượt tôi, tôi vẫn không hết ngạc nhiên. Cho đến khi, tôi trực tiếp hỏi, thì vẫn cái cách trả lời dẽ dàng vốn có.


      Về thời giờ để đọc:


      - Tuổi già, ngủ một lúc đến độ hai ba giờ là mình dậy, lúc ấy sách gì mà chẳng đọc hết.


      Về bản chất của cái sự đọc nhiều này:


     - Ấy là thói quen của người tự học.


     Cũng nên nói thêm là, trong cuộc đời Tô Hoài, còn có một chặng thử thách nữa, mà nhờ thói quen thích ứng, tức cũng là nhờ bản lĩnh, ông đã hồn nhiên để trụ vững để rồi vượt qua, một cách nhẹ nhõm, ấy là những ngày đầu kháng chiến chống Pháp khi ông cùng các đồng chí đồng nghiệp được điều lên Việt Bắc tận chân dãy núi Phia Boóc (Bắc Cạn) làm báo Cứu quốc.


       Bấy giờ khoảng 1947-48.


        Dường như cách sống của một nhà văn nổi tiếng tiền chiến chưa hề nhiễm vào Tô Hoài, lúc này, những tháo vát xoay xoả của người thợ cửi cũ lại được thức dậy. Ông sống giữa đồng bào dân tộc Mán, làm công tác địa phương. Ông viết báo, viết tường thuật các trận đánh, viết xong, đọc ngay cho đồng bào nghe để lấy ý kiến.


        Bề ngoài tưởng như trước mắt chúng ta là một con người hoàn toàn khác, và người cán bộ ba mươi tuổi ấy không còn dây dưa gì đến những chơi bời lăn lóc trên phố phường Hà Nội thuở nào. Song thật ra con người viết văn của Tô Hoài vẫn làm việc, ông gần như chuẩn bị lại từ đầu.


       Ông vẫn viết đều, truyện ngắn có, truyện vừa có, nhưng lại rất nhiều những ghi chép, phóng sự, ký sự và các bài báo vặt, và cả ca dao nữa, ca dao cho người dân kháng chiến dễ nhớ. Có cảm tưởng Tô Hoài là cái cây khoẻ, đất nào cũng mọc được, vứt vào đâu cũng sống được, và sống đến đâu viết đến đấy.





                                                                 III


      Từ những năm mới bước vào nghề làm văn làm báo, tôi đã  được nghe các bậc đàn anh ở tạp chí Văn nghệ quân đội cũng như đám bạn bè cùng tuổi kể nhiều về Tô Hoài.


      Đại khái nói bằng ngôn ngữ của đường phố thì ai cũng kêu rằng đấy là một bậc “lõi đời”, dân làm nghề loại “bợm”, trình độ võ công thượng thặng bộc lộ ở chỗ lúc nào cũng nhẹ như không, có vẻ chẳng cần nỗ lực làm gì, chỉ nhởn nhơ, thoải mái mà công việc vẫn chạy đều đều.


      Kể ra, nghề gì cũng vậy, có chăm chỉ mới sống nổi. Nghe nói ở nhiều nước phương Tây có những nhà văn viết bằng cách đọc vào máy, rồi có người gỡ băng, đánh máy lại. Sách ra ùn ùn.


      Nhưng ở ta cái thời văn chương điện tử ấy chưa tới, nghề văn đại khái vẫn là nghề thủ công, thành thử, sự chăm chỉ ở đây phải mang bộ mặt thô sơ của nó. Có tài cán đến mấy, mà không vào bàn, cũng không ra chữ - đấy là điều đã đúng với bao nhà văn khác, Nguyễn Công Hoan và Ngô Tất Tố, Nguyễn Khải và Nguyễn Minh Châu.


       Tuy nhiên giữa bao nhiêu sự cần cù ấy, riêng lối chăm chỉ của Tô Hoài vẫn là lạ, là khác đời. Nó thành một nếp sinh hoạt hàng ngày. Nó bền. Nó kéo dài. Đôi khi nó công khai bày ra trước mọi người trong các buổi họp đến mức người ngoài trông chướng anh ách, song Tô Hoài vẫn không lấy làm điều, cứ cách của mình mà làm.


      Quả thật là giữa một thế giới văn chương nửa nghiệp dư, nửa chuyên nghiệp, kết quả của một kiểu sống nửa cán bộ, nửa nghệ sĩ luôn luôn thấy những tuyên bố, những tranh cãi hão huyền, mà tác phẩm có chất lượng chẳng là bao, thì việc Tô Hoài cứ miệt mài viết cắm cổ viết, sách ra đều đều và bao giờ cũng có chút gì đó để người ta đọc như thế, bảo không lạ sao được!


     Dường như nhà văn tìm thấy ở trong cái sự có mặt thường xuyên của mình một lẽ sống, và hơn nữa, một triết lý, nó nâng đỡ và hướng dẫn ông trong suốt cuộc sống.


      Cuối năm 1969, tạp chí Tác phẩm mới ra đời. Từ chỗ chỉ có một tờ báo duy nhất là  tờ Văn nghệ, nay Hội nhà văn Việt Nam có thêm một cơ quan ngôn luận nữa, nên mọi người dễ để tâm lo liệu cho nó.


       Tự tay Nguyễn Đình Thi đứng ra làm mấy số đầu. Rồi có dạo Hoàng Trung Thông đứng ra phụ trách. Nhưng hai người làm lâu nhất là Tô Hoài và Chế Lan Viên - hai ông theo lối luân phiên hết sáu tháng người này trực đến sáu tháng người kia trực.


       Biết tôi thích nghe chuyện Tô Hoài, anh bạn Phan Hồng Giang làm chân ét chạy bài cho phần phê bình của tạp chí này kể:


     - Cơ quan kéo nhau đi nghỉ ở Đồ Sơn ít ngày, trên đường về gặp nước lụt. Xe không đi được phải chờ. Trong lúc anh em ngòi tán phét, thì cụ Tô Hoài cụ ấy ngồi viết xong một kịch bản phim hoạt hình.


     - …


     --Thì vẫn đến chơi với cơ quan, ông còn lạ gì. Trở đi trở lại có cái phòng ấy, bàn tổng biên tập ngay cạnh bàn chúng tôi.  Đấy là nơi cụ ấy vừa tiếp khách, vừa viết tiểu thuyết.


       Trở lên là chuyện tôi nghe được, còn đây là chuyện chính tôi chứng kiến: một lần, ở Moskva, hôm trước vừa đi với Tô Hoài nghe ông kể định viết bài bút ký thế này thế này, hôm sau, trong điện thoại, đã nghe ông bảo rằng viết xong rồi!


     - Ôi! anh viết nhanh thế!


     - Đời người ta chơi nhiều, dông dài nhiều, chứ ngồi viết có mất mấy thì giờ.


       Một lần khác, có dịp sống cạnh Tô Hoài trong một chuyến đi công tác, tôi ngạc nhiên nhận thấy khi lấy kim chỉ ra khâu lại cái khuy áo với khi kỳ cạch chữa bản thảo cho kịp gửi về Hà Nội cũng vẫn cái dáng ông già căm cụi ấy.


      Đoán ra tâm trạng tôi, ông cười, trông vừa láu lại vừa hiền:


     - Thì mình chẳng đã viết đây đó rằng nghề văn xuôi giống như nghề của mấy anh thợ may là gì?


      Một sự so sánh thuần tuý Việt Nam. Song mỗi lần nhớ tới nó, lại không khỏi liên hệ tới cách nói của một nhà văn Pháp còn đang sống, ông J. M. Gustave Le Clézio:


“Trở thành nhà văn có lẽ làm ta vướng víu. Nhưng viết văn là một nghề theo nghĩa cổ nhất của từ này. Khi nghĩ đến nhà văn, tôi nghĩ đến những quyển sách mà người ta truyền tay nhau đọc. Rồi tôi nghĩ ngay đến bút, giấy. Càng ngày càng khó tìm ra giấy đẹp, thứ giấy không trắng quá, nhưng lại thấm mực và khiến cho người ta thích viết... Nhà văn là người mang những thói tật của người thợ thủ công mỹ nghệ, thợ làm đồ nữ trang. Một nghề nghiệp đòi hỏi phải thật khéo tay. Phải giải quyết những khó khăn trong việc và víu và lắp ráp như thợ chữa giày. Chỉ khác ở chỗ giày thì người ta biết dùng để làm gì. Còn sách thì... tôi chưa chắc chắn lắm. Tuy nhiên, có những dân tộc không cần đi giày nhưng lại cần sách”


      Giữa các nhà văn Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân là một trong nhưng bậc thày, một người sinh ra để viết văn, và nói như Nguyễn Minh Châu, thực sự là đã trở thành một định nghĩa về nhà nghệ sĩ.


       Đi để viết, đọc để viết, kiểu gì Nguyễn Tuân cũng thiện nghệ cả.


       Chỉ có điều chính sự viết thì khi về già cụ Nguyễn lại dề dà, ngần ngại, hàng ngày có bao nhiêu điều dự định song cứ ấp ủ vậy, mà không viết ra nổi.


      Ở chỗ này, xem ra Tô Hoài có phần thực tế hơn. Chính Nguyễn Tuân đã bảo với tôi điều đó. Hồi sinh thời Nguyễn, có lần tôi đánh bạo hỏi về cách tổ chức công việc, thì được cụ trả lời:


     - Mình làm việc có mê-tót gì đâu! Có mê-tót, phải là sừ Tô Hoài.


     Tạm thời có thể quy cái mê-tót mà Tô Hoài theo đuổi, vào mấy điểm như thế này:


      1. Đi đâu cũng viết, gặp cái gì cũng viết, viết đủ các thể loại - thể tài, không mảy may bỏ phí một chút gì. Chẳng những thế, tận dụng cái vốn sẵn có huy động nó đến cùng, để tạo nên hiệu quả tối đa.


      2. Sống không cầu kỳ, nhất là không làm khổ mình bằng những thói quen có hại mà sống tất cả để viết.


       Có thể phải viết cả một quyển sách, để nói về cái điểm thứ hai này, tức là cách sống nhẹ nhõm đơn giản của Tô Hoài. Ông dễ dàng tự thay đổi. Ông thích ứng nhanh. Ông thật hoạt.


       Là người Hà Nội gốc, ông giữ được và ngày càng trau dồi cái bặt thiệp riêng, trong sự ăn uống, sự tiếp đãi khách khứa, ở đấy cái sành sỏi đã trở thành tự nhiên, và đứng đằng sau nó, là một nhu cầu ngày càng cao về hưởng thụ.


      Song chỗ hơn người của Tô Hoài là không bị những sành sỏi đó ràng buộc.


      Vào một khách sạn sang trọng ông chuyện trò như một người ngày nào cũng đến, và rất biết người biết của. Song ngay sau đó, nêu phải ghé vào một quán hàng bên đường, chỉ có cái bánh nếp quả trứng luộc ông cũng ăn uống ngon lành, và nếu như hôm sau có dịp lên các vùng cao, thì ông sống ngay được như đồng bào các dân tộc.


      Khoảng cuối 1970, nhà văn Nguyễn Khải có dịp cùng với Tô Hoài qua New Delhi, dự hội nghị nhà văn Á Phi, trước và sau đó đều có ghé qua Moskva. Trong câu chuyện kể lại với chúng tôi ở Văn nghệ quân đội, Nguyễn Khải dành cho Tô Hoài một vai khá đẹp:


     - Đến New Delhi, ông ấy cũng chỉ có bộ vét-tông tài chính cũ kỹ. Ấy thế nhưng tây nó lại thích, có mấy tay nhà văn Ấn Độ nổi tiếng, sách toàn được nhà Gallimard ở Pháp cho in mà trông cũng xuyềnh xoàng như lão bán vải.


    - Đi họp thời nay thể nào cũng phải có chuyện đấu đá một chút. Được cái Tô Hoài nói khôn lắm. Trước lúc thông qua cái văn kiện, ông ấy chỉ vừa cười vừa bảo với mấy tay Nga “Làm thế nào để tôi có thể đi nữa thì làm”. Thế là tự họ thu xếp với nhau, khiến cho sứ quán mình cũng nghe được.


    - À mà này, có biết ai đi tiễn Tô Hoài lần này không? Một ông phó mộc. Chả ông ta là phó mà Tô Hoài thì là trưởng ban đại biểu dân phố.


     Bây giờ, quay trở lại cái điểm thứ nhất là sự cần mẫn của Tô Hoài trước trang giấy:


     Ngay từ trước 1945, tác giả Dế mèn đã có truyện ngắn Hết một buổi chiều (viết ở Sài Gòn) trong đó ông chế giễu một anh nhà văn tập tọng, thích nổi tiếng, nhưng lại lười, lúc nào cũng chờ cảm hứng, rút cuộc chả viết được gì nên hồn.


      Thực tế kiếm sống rèn cho Tô Hoài những thói quen khác.


      Trong ông, con người làm nghề hình thành với bộ mặt đa dạng: có phía cả quyết, bám vào đó mà sống; có phía nhạy cảm, biết mình mạnh ở chỗ nào, yếu ở chỗ nào, vậy phải viết về cái gì mới “ăn”; có tâm lý tự trọng thái độ làm việc kỹ lưỡng, thông thạo mọi mẹo mực trong nghề, và hào hứng chấp nhận thử thách, muốn đóng góp thêm cho nghề; lại có phía ranh ma, biết tận dụng mọi thứ rơi vãi, làm hàng kỹ cũng được, làm hàng “xổi”, hàng chợ cũng không chối từ.


       Sự đa dạng của tài năng Tô Hoài - hoặc nói rõ hơn, sự pha tạp của tài năng ấy - bắt nguồn từ một ý thức sâu xa: đã gọi làm nghề thì phải biết làm tất cả mọi việc trong nghề, đi từ điểm A (điểm đầu tiên) đến Z (điểm tận cùng) của nghề nghiệp.


      Hình như không bao giờ Tô Hoài bí cái để viết. Ông lui tới giữa chữ nghĩa sách vở như người thợ mộc giữa đống gỗ, gỗ xấu gỗ tốt gỗ cứng gỗ mềm thế nào, rồi cũng sắp vào việc được.


      Chuyện viết tạp Tô Hoài, đã thành bản tính thứ hai của ngòi bút. Khi có thì giờ, ông viết tiểu thuyết. Ít thì giờ hơn lo trông nom các tập truyện ngắn. Ngoài ra là bút ký đi đường, và mẩu truyện, là chân dung văn học và lời giới thiệu cho các tuyển tập, là vô số các bài điểm sách nho nhỏ, các bài dọn vườn, ý kiến ngắn hoặc lời cho truyện tranh thiếu nhi v.v... tóm lại đủ thứ lỉnh kỉnh trong nghề làm báo, chỉ trừ có thơ, còn những gì thuộc lĩnh vực văn xuôi, Tô Hoài đều viết hết!


      Nếu đã có lần trực tiếp biên tập một cuốn sách của Tô Hoài, người ta sẽ thấy nhà văn này có lối chăm sóc những gì đã viết ra một cách kỹ lưỡng và phải nói là tạo thành một thói quen đáng quý.


      Bản thảo thường viết trên giấy một mặt, chữ rất đều, dễ trông.


      Với các truyện ngắn đã đăng báo, Tô Hoài dỡ ra, dán lại vào những tờ giấy một mặt. Gặp trường hợp truyện đã in ở một tạp chí, tức trải ra trên cả hai mặt giấy, thì hết một trang in, lại một trang viết tay, do tự tay Tô Hoài ngồi chép.


       Lề của các trang bản thảo này thường được chừa khá rộng, những dấu đài lên đài xuống như những cái tua vằn vèo chi chít, lắm khi lại còn những đoạn lèo thêm bổ sung, kín cả mặt giấy.


      Dường như đã đọc lại, là Tô Hoài phải cầm bút và chữa vào đấy, không động đậy không yên tâm.


       Mấy năm gần đây, khi các thứ đồ nghề văn phòng đa dạng hơn và bán ra nhiều hơn, Tô Hoài lại có cách chăm sóc bản thảo kiểu khác. Cát bụi chân ai, Mười năm, Hồi ký đều được chuyển cho cánh biên tập viên chúng tôi ở dạng bản thảo đánh máy sạch sẽ, được đóng lại bằng bìa mỏng gáy dán băng dính đâu vào đấy.


        Thế này thì tốn kém cho người viết quá - tôi thầm nghĩ. Dường như đoán ra ý nghĩ của tôi, Tô Hoài bảo: “Quen thế mất rồi, có lỗ vốn cũng phải sửa sang cho cái bản thảo nó tươm tất một chút”


      Rộng hơn câu chuyện chăm chỉ, cần cù ở đây, hình như còn có vấn đề cách hiểu về nghề, cũng như sự điều chỉnh bản thân cho phù hợp với nghề. Và tất cả được làm một cách nhẹ nhàng, bởi đã thuần thục. Đến khi đã có được cái đạo viết trong người thì viết bao nhiêu cũng không thấy ngại, càng viết lại càng muốn viết nữa.


        Viết là say và viết là tỉnh.


        Viết để ghi lại những gì đã sống, viết lại chính là sự sống nữa.





                                                                      IV


       Có một căn bệnh thoạt nhìn cũng vô can, song bởi vậy, nên khó chữa, nó tồn tại ở nhiều nhà văn Việt Nam và để lại nhiều giai thoại ngồ ngộ, đó là sự lý tưởng hoá nghề nghiệp, xem nghề của mình một chiều thiêng liêng, người làm nghề toàn hạng tâm huyết với nhiệt tình. Mặc dù không cố ý, song loại người mắc bệnh này động nói tới văn chương là ngả sang giọng rưng rưng cảm động. Chữ nghĩa được dùng cao sang. Làm như ở đây toàn là thánh thần cả!


       Phải thành thật mà thú nhận là lúc mới vào nghề, tôi cũng không tránh khỏi căn bệnh quý hoá đó. Chỉ dần dần, dạn dĩ lên trong tiếp xúc, tôi mới tìm tới được một cách nghĩ về văn chương tạm gọi là phải chăng. Và một trong những người giúp tôi có cách nghĩ hợp lý hơn này, là Tô Hoài.


      Như trên vừa kể, trong những năm cộng tác với đề tài khoa học KX-06-17, tôi có dịp tiếp xúc với nhà văn này gần như hàng tuần và sớm nhận ra một điều: Không muốn thì thôi, còn khi đã muốn, ông có cái lối riêng để đến gần mọi người.


     Những lúc có vài phút dư thừa, ngồi tán hão bên bàn, nếu cần xích lại với người đang nói chuyện với mình, ông chỉ cần vài câu, diễn tả đúng cái đơn giản tầm thường của đời sống, trước tiên là về chính mình, thế là mọi khoảng cách bị xoá sạch.


     Một lần, nghe chúng tôi hỏi có những tác phẩm nào sắp cho in, Tô Hoài cắt nghĩa giản dị:


     - Ấy toàn của xếp hàng từ mấy năm trước. Cần có cái in ra để thỉnh thoảng làm một hai chén với anh em, lại phải có món để mang về cho bà nó đong gạo nữa chứ.


      Một lần khác, đến một nhà xuất bản nọ, trước khi ngồi nán lại một lúc, ông nhờ gọi điện về nhà nhắn với đứa cháu ngoại là bảo bà cho ông ăn cơm trưa với:


     - Sao lại phải gọi về thế anh? - Hàng ngày chúng tôi vẫn gọi Tô Hoài là anh, dù biết người đối thoại với mình đã trên 70 từ lâu.


     - Nghe có mình về, bà ấy còn làm thêm tí thức ăn, chứ không có mấy bà cháu ở nhà, lại trần xì có nồi cơm nguội.


      Khi nói về những chuyện này Tô Hoài chỉ mỉm một nụ cười nhũn nhặn, con mắt lim dim gật gù, như có ý muốn nói: chúng ta cùng một cảnh ngộ cả, tôi có khác gì các anh các chị đâu. Và mặc dù nói đông nói tây đủ thứ song cách nói chuyện của Tô Hoài vẫn dẽ dàng tự nhiên không mang tiếng là người nói nhiều, nói át người khác.


      Nam Cao là một nhân vật lớn của cả văn học tiền chiến lẫn những năm sau 45.


     Bản thân Tô Hoài trước sau đã viết năm sáu bài, khi để tưởng nhớ Nam Cao, khi để phân tích quá tình trưởng thành của một nhà văn cùng lớn lên từ cuộc sống cần lao như mình.


      Song trong khi miêu tả Nam Cao đáng yêu đáng quý, Tô Hoài vẫn cho người ta thấy nhà văn rất gần với mọi người. Nào những băn khoăn của Nam Cao muốn kiếm một cái vé sợi cho vợ. Nào những thèm muốn thường tình ở anh giáo nghèo khi từ nhà quê, nhìn vào đời sống thành thị. Và đây công việc viết văn của Tô Hoài mà cũng là của Nam Cao:


     “ Mỗi tháng chúng tôi túi bụi bận viết vào mấy ngày cuối tháng. Đã vào nghề viết, nhưng nghề thế nào tôi không bao giờ có được kinh nghiệm và thành thạo, chỉ biết lúc nào cũng là nỗi dằn vặt. Cứ sắp đến ngày hẹn đem truyện xuống nhà xuất bản tôi mới ráo riết, cắm cúi thâu đêm.


      Có khi, chúng tôi phải viết đổi tay cho nhau mới làm kịp. Nam Cao thạo tả nhân vật, tôi nhờ anh viết cho tôi những đoạn như thế. Lúc Nam Cao buồn ngủ hay chán viết, anh bảo tôi: “Cậu làm hộ mình thế này nhé. Sắp mưa, bờ ao có bụi tre. Buổi chiều. Mấy trang cũng được.” Tôi vốn thích tả cảnh. Tôi lia hộ bạn vài trang như anh đã phác. Cũng là một thứ công ti” (Tô Hoài Tự truyện. NXB Văn Học 1985, tr. 272-273)


      Trước mắt chúng ta, công việc viết văn hiện ra lam lũ, như nghề dệt cửi đầu hôm tối mai mà Tô Hoài vẫn tả.


     Sống mòn là một tác phẩm mang nhiều yếu tố tự truyện của Nam Cao.


      Nguyễn Đình Thi, một nhà văn lớp sau vốn xem cái gì các tác giả tiền chiến viết ra cũng có ý nghĩa chính trị, khi giải thích tại sao trước 1945 cuốn Sống mòn này không in ra được, đã khoác cho sự việc một cớ rất sang: bởi nó đặt các vấn đề xã hội một cách xa xôi kín đáo nên Sở kiểm duyệt cũ của thực dân ngửi hơi thấy và xoay đi xoay lại nhiều lần không cho in.


      Song, là người chứng kiến việc Nam Cao viết Sống mòn từ đầu, Tô Hoài lại hé ra cho bạn đọc thấy một sự thực khác.


      Theo Tô Hoài, khi viết xong tiểu thuyết (mà ban đầu gọi là Chết mòn), Nam Cao hay nói nửa đùa nửa thật: “Bao giờ những người trong tiểu thuyết này chết đi, mình mới đem in được sách. In bây giờ thì không dám nhìn mặt ai nữa”. Vả chăng hồi đó Nam Cao chưa thành một cái tên để người ta nhận in tiểu thuyết dày, Tô Hoài nói thêm.


       Hoá ra chỉ đơn giản có thế!


       Biết những chuyện này, chúng ta không chán Sống mòn mà chỉ thấy mừng là một quyển sách như thế lang bạt suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, may mắn sao lại còn có sống sót để tồn tại vĩnh viễn trong văn học Việt Nam. Cũng như biết thêm con người yếu đuối, con người cái gì cũng thèm, cái gì cũng tiếc của Nam Cao, chúng ta càng quý cái sự vượt lên của ông và càng cắt nghĩa được tại sao người ta có thể đọc Nam Cao mãi.


      Những tầm thường vốn có không làm hại tình cảm của chúng ta đối với nhau. Ngược lại đằng khác. Với người sống lâu trong nghề nói là một lý do để an ủi: đấy, điều kiện sống của chúng ta eo hẹp vậy, làm sao để có tác phẩm lớn được. Mà làm thế nào biết được tác phẩm ấy sẽ lớn, sẽ sống mãi, thôi hãy sống nhì nhằng qua ngày!


        Riêng với người còn định vào nghề, nó là một lời cảnh tỉnh, nghề văn vất và lắm, anh có chịu được thì hãy đến.


         Bằng cái biết cái hiểu của người trong cuộc, rỉ rả mỗi ngày một tí, Tô Hoài hé ra những sự thật về chung quanh cái nghề mà ông thành thạo, theo cái hướng như thế.


       Kể làm sao hết những sự thực nghề nghiệp mà Tô Hoài  đã nói tới đây đó vui vui mà đau xót.


       Nhắc đến Nguyễn Công Hoan, bên cạnh câu chuyện nghiêm chỉnh viết thư xin phép cho diễn Tấm lòng vàng, là những chuyện buồn cười, Nguyễn Công Hoan khi về già viết truyện cổ lỗ thế nào trong khi lại chủ quan, thơ ngây với sự đời ra sao.


       Liên quan đến Nguyên Hồng là câu chuyện đi khuân thùng bia hộ mấy bà phe phẩy.


      Trong hình ảnh thân thuộc của Nguyễn Bính, có hình ảnh anh chàng si tình cầm chiếc hộp sắt đầy những là thư tình dở hơi , thư nào cũng về vệt những mồ nhôi tay.


       Hình như Tô Hoài muốn tìm lấy sự công bằng, trong khi vẫn giữ một tình cảm ấm áp giữa các đồng nghiệp, và nhiều lần, chỉ cần một nhận xét bỏ nhỏ thôi, ông phác ra cả một tính cách, một số phận.


         Về Ngô Tất Tố  nổi tiếng viết về đời sống nông thôn.


       - Tranh chánh hội mấy lượt không được, nên cái sự cụ ấy ghét cường hào có gì là lạ!


        Về  Hoàng Trung Thông người say rượu tự mình làm hỏng cuộc đời của mình vì rượu.


       - Ông này đi họp với tôi ở Liên Xô mấy lần, từ máy bay xuống đã say, trước cái vòng quay trả hành lý, có mỗi cái va ly cũng không lấy nổi: cứ chạm vào lại trượt, lại phải chờ vòng quay sau, say như thế nên mới hỏng cả người.


      Về Nguyễn Xuân Sanh, chỗ nào cũng có mặt, mà thơ thì không ai nhớ.


     - Cứ trông thấy thơ của ông ấy là tôi phải đọc. Đọc vì tò mò. Đọc cho nó đỡ buồn.


       Về Vũ Tú Nam, một giọng văn “công chức bẩm sinh”:


     - Lúc nào văn ông ấy cũng nhạt, chỉ không biết lúc nào thì nhạt thật, mà lúc nào nhạt giả.


      Mỗi người một vẻ, cuộc đời khá nhiều các bạn đồng nghiệp đi qua, để lại trong Tô Hoài những ấn tượng hơi buồn. Chúng ta sống không ra sao, đáng lẽ chúng ta phải biết mình biết người hơn, phải sống và viết cho khá hơn, mà cũng ra người hơn một chút, chứ thế này sao tiện?!


       Cùng với việc lý tưởng hoá nghề nghiệp, có một nguyên tắc không ghi thành văn bản chi phối quan hệ giữa những người viết văn thời bao cấp là để chuyện tiền nong sang một bên, không đả động đến nó bao giờ.


      Có thể là trong câu chuyện hàng ngày  thì người ta vẫn  dòm dỏ để ý nhau, kháo nhau tỉ mỉ; và nhất là trong đầu óc từng người, việc so đo tính viết thế này cho báo này được tiền hơn, viết thế kia, gửi cho báo kia, được ít lắm....-- những chuyện ấy luôn luôn trở đi trở lại.


     Song viết ra thì người ta ngầm ước hẹn với nhau là không, hầu như là chuyện cấm kỵ.


     Về phần mình Tô Hoài công khai bày ra sự tính đếm của mình khá sớm. Sao báo Chủ nhật đăng truyện mà không trả tiền cho mình? Nhuận bút một truyện in trong Hà Nội tân văn là bao nhiêu, tương đương ra sao với thu nhập của một anh thư ký hãng buôn? Cách ký hợp đồng của các ông chủ xuất bản thời xưa... Cách nhận bản thảo... Bấy nhiêu chuyện đã kể không làm cho người ta thấy văn chương hèn hạ mà ngược lại nó giúp người đọc nhận ra những xót xa còn ẩn giấu giữa những dòng chữ.


     - Mấy năm 43-44, có lệ là sáng mồng một, phải đến mừng tuổi ông Tân Dân. Mừng tuổi thế nào? Tối ba mươi, dọn dẹp cỗ bàn cúng giao thừa xong, tôi còn ngồi lia luôn được một cái truyện. Đến nơi, mừng tuổi ông ấy cái truyện mới viết, thì ông mừng tuổi lại năm đồng. Thế là hoà, mà lại được cái tiếng lịch sự.Truyện tết viết năm nay, ông cất vào kho, để lại in vào số Tết sang năm.


     - Nhuận bút báo tết có cao hơn báo thường?


     - Không. Nhưng người viết văn ngày xưa có cái sướng hơn hẳn người viết văn bây giờ là tiền ấy, do chính tay ông chủ trao, chứ không phải như bây giờ, giám đốc chỉ tay bảo mình ra gặp kế toán, rồi có tiền thì có kế toán bảo đến đấy mà lấy, không có tiền bảo hôm khác đến, muốn hành thế nào mình cũng phải chịu.








                                                                    V


       Ai đã từng sống ở Hà Nội, từ trước 1945 - hoặc nói rộng ra một chút, trước 1954 - hẳn nhớ thành phố này vốn bé nhỏ và xinh xắn so với bây giờ rất nhiều.


       Ngày ấy, từ mạn trường Chu Văn An đổ lên suốt đường Thuỵ Khuê và song song với nó là đường Hoàng Hoa Thám, phố xá đã trở nên vắng vẻ hẳn. Đến đầu dốc Tam Đa, chỗ tránh tàu điện thì cảm giác ngoại ô càng trở nên rõ rệt; từ đây đến chợ Bưởi là vùng đất của các làng nghề: làng Hồ, làng Cả làm giấy, dân Nghĩa Đô, làng Võng dệt cửi...


       Một tháng sáu phiên, như mọi phiên chợ vùng quê, chợ Bưởi họp; và ở đấy người ta bắt gặp những gương mặt của một vùng đất bảo hào hoa, thanh lịch cũng được, mà bảo cũ kỹ, mòn mỏi, quê mùa, đi dần đến tan rã cũng được.


       Những cảm giác này đã được diễn tả khá đầy đủ trong những trang sách của Tô Hoài, và các nhà nghiên cứu đã nói đủ thứ về nó, nào là ý nghĩa hiện thực, nào là ý nghĩa nhân đạo (Khoảng 1995-96, theo Tô Hoài kể, Đặng Tiến nhắn cho ông biết một nhà xuất bản ở Pháp đã ngỏ ý muốn dịch in lại tất cả những gì Tô Hoài đã viết liên quan đến cái vùng ngoại thành phía bắc, sau thế nào tôi không thấy ông nói lại nữa).


      Song để tìm hiểu con người làm nghề Tô Hoài, thì đấy cũng là điểm xuất phát. Những câu hát ru con, hát ví, mà bây giờ ta gọi là ca dao, dân ca, hoặc những câu Kiều, Hoa Tiên lởn vởn trở đi trở lại trong truyện Tô Hoài.


     - Trăng thề còn đó trơ trơ


     


     - Nhớ ngày nào liễu mới ngâm


     Le te bên vũng độ tầm ngang vai


     Chợt đâu bóng cả cành dài


      Đã sương đã khói đã vài năm nay


      


      - Anh thương cô nàng như lá đài bi


       Ngày thì  dãi nắng đêm thì dầm sương


     Trong truyện này nhân vật chính là cô Lụa, ở truyện kia là cô Mùi, rồi cô Ngây, cô Mì... xoay quanh các cô bao giờ cũng có một trang thanh niên giỏi giang văn vẻ nhưng lại nghèo rớt mùng tơi và lại thuộc Kiều và có thể làm thơ lẩy Kiều, để nói điều tâm sự.


     Có cảm tưởng như Tô Hoài là từ đám trai làng ấy mà ra. Tô Hoài viết văn, là để đi xa hơn cái việc nhũng người thanh niên kia bắt đầu mà không bao giờ dám nghĩ tới chuyện đi tiếp.


      Cần nhất lúc đầu là phải láu lỉnh và liều lĩnh một chút, liều lĩnh phiêu lưu như chàng dế mèn nọ, mà Tô Hoài đã dựng lên, để gửi gấm ít mơ mộng của tuổi trẻ. Những cái đó ở Tô Hoài không thiếu.


       Và thế là, cũng như những Nam Cao, Nguyên Hồng, Kim Lân, một người làm nghề kiểu mới đã hình thành.


      Xưa kia, nói tới văn chương là nói tới lớp nhà nho hay chữ. Chẳng qua chán công danh, nên lấy câu thơ quyển truyện làm vui, mà trong những điều viết ra, vẫn còn bao niềm tâm sự.


      Cho tới đầu thế kỷ này, khi cái nền văn học cũ tàn lụi thì lập tức nền học mới thay thế, và người làm văn chí ít cũng là lớp con nhà giàu, ở nhà học chữ Hán với gia đình, đến trường học tiếng Pháp theo quy cách nghiêm cẩn của nhà trường thuộc địa. Và tuy không ai giao phó nhưng thật ra họ vẫn nhận lấy trách nhiệm của người trí thức phát ngôn cho những ý tưởng mà lớp thượng lưu muốn nói với xã hội.


       Nhưng trong toàn bộ cái nền rộng lớn của văn hoá văn minh phương Tây được du nhập vào xứ sở này nửa đầu thế kỷ XX, còn có một hạt nhân quan trọng là tinh thần dân chủ.


     Cùng với sự giàu có lên của toàn thể xã hội, lớp người nghèo khó có sự trưởng thành vượt bậc về mặt ý thức, và từ trong hàng ngũ của họ, bắt đầu có những người dám cầm lấy cây bút. Những nhà văn loại này - như Vũ Trọng Phụng, như Nguyên Hồng, như Nam Cao - không tính tới chuyện cao sang, thoạt đầu, họ chỉ viết vì bức bách, vì thấy sự đời quá nhiều nông nỗi đau xót, và cũng có thể đơn giản là vì tìm thấy trong sự viết lách một cái kế để sinh nhai.


       Trong quá trình kiếm sống, sự thực là họ đã nói lên tiếng nói của lớp dân lao động nghèo khổ.


      Không thể đòi hỏi họ quá nhiều.


       Khối người trong họ, trong đó có những cây bút rất có năng khiếu, đã như giống cây, ngày một cằn cỗi, vì thiếu kiến thức và không bao giờ vươn lên để trở thành một trí thức thực thụ.


     Nhưng làm nhà văn chép được sự đời, thương cảm với những đau đớn ngang trái, làm nhà văn để nói hết cái cuộc sống vừa đẹp đẽ, vừa rất buồn này, thì nhiều người trong họ làm được, nhất là ở những người biết tự học và thường xuyên làm giàu kiến thức thêm cho mình.


     Tô Hoài chính là một mẫu nhà văn thuộc về nhân dân lao động, nhà văn kết quả của quá trình dân chủ hoá mà xã hội Việt Nam hiện đại đã đẻ ra và nuôi dưỡng.


      Vượt lên trên những anh Hời, anh Cuông - chỉ lẩy Kiều, chỉ sáng tác thơ để chép vào sổ gửi các cô gái hoặc truyền tụng trong làng, sáng tác của Tô Hoài nay có dịp phổ biến rộng rãi hơn; như con cá từ ngòi đã ra đại dương, song nhìn kỹ, những dấu vết của ngày hôm qua, của cái khu vực xuất thân, không phải không còn thấp thoáng.


     Tuy nhiên, dù là chỉ nghiên cứu Tô Hoài trong nghề cầm bút, người ta không thể không ghi nhận một sự thực:


     Ngay từ 1940, khi bắt tay làm quen với giới sáng tác đương thời, thì đồng thời tác giả Dế mèn cũng bước vào hoạt động cách mạng. Lúc đầu ở thời kỳ Mặt trận bình dân, ông hoạt động trong cơ sở Hội ái hữu thợ dệt Hà Đông. Sau đó ông lại được tổ chức đảng ở Hà Nội bắt liên lạc để hình thành nên lực lượng văn hoá cứu quốc.


      Tiếp đó, từ sau 1945, những hoạt động xã hội của nhà văn ngày một đa dạng. Triển khai ra theo chiều rộng, có lúc ông trở thành anh cán bộ địa phương, có thời gian đi cải cách ruộng đất, đi học trường đảng,  nhiều năm làm đối ngoại nhân dân, đồng thời vẫn giữ chân trưởng ban đại biểu dân phố (1965-1972).


     Ở cơ quan văn nghệ trên Trung ương hay ở Hà Nội, hầu như từ 1958 tới nay, khoá nào ông cũng có chân bí thư hay phó bí thư chi bộ, đảng bộ.


      Mặt khác, ngay trong giới cầm bút, ông cũng luôn luôn có hoạt động xã hội của mình, khi là Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn, khi chủ tịch Hội văn nghệ Hà Nội, từ đó đẻ ra cơ man nào là đầu việc, là họp hành, mà người ta gọi chung là công tác.


    Hơn 50 năm trời liên tục như thế, lẽ tự nhiên là ở Tô Hoài, hình thành nên cả một nếp sống lạ lùng.


     Ở ông, cùng lúc tồn tại nhiều con người khác nhau: nhà văn lam lũ ham đi ham viết và anh cán bộ tháo vát, chẳng việc gì có quyền từ nan; người lãng tử lang thang trong đời vui đâu chầu đấy và ông chủ văn chương nhạy cảm, giàu kinh nghiệm, biết đối phó với mọi biến chuyển ở khu vực mà mình phụ trách; người học trò chân thành và người thày lâu năm phải nói như sách giáo khoa quy định.


     Nhờ biết điều tiết để những con người này chung sống một cách hoà thuận, Tô Hoài cùng lúc làm được bao nhiêu việc khác nhau.


     Nhưng trong sự nhập vai thuần thục đó, tinh ý một chút sẽ nhận ra một sự phân ly dứt khoát.


     Bên cạnh con người dễ dàng từ tốn, sống hoà hợp với mọi người là một cá nhân đơn độc với những tâm sự riêng. Có những lúc ngồi giữa bạn bè, bên chén rượu, con người đó vẫn cảm thấy bơ vơ một thân một mình như đang phiêu diêu đến chân trời xa lạ.


     Trong một bài viết về Nguyên Hồng (Những gương mặt, tr. 103), Tô Hoài tự nhận “ Tính riêng tôi vốn ưa tầm lặng, vùi mình vào một xó”.


     Đến phần hồi ức về Vũ Ngọc Phan, nhân lời trách của nhà phê bình đàn anh là sao không đến chơi, Tô Hoài nhìn lại mình như nhìn một ai khác: “Người ta cứ mỗi tuổi lại cứ thành nếp những tính nết kỳ quặc, riêng biệt, về sau tôi đâm ra lười nhác giao thiệp, ưa lủi thủi”.


      Nhưng rồi cũng chỉ được phép đơn độc đến thế! Rồi cuộc đời chủ yếu lại là công việc, là những buổi họp, là những chuyến du ngoạn, là hội thảo nọ, hội thảo kia, là các loại báo cáo dài dòng, và những thầm thì hội ý kín đáo, nói chung là những màn diễn, mà có khi mình lên sân khấu, có khi mình là người khán giả đứng xem.


      Và trong mọi việc lại thấy hiện ra một Tô Hoài lõi đời, sành sỏi, con ruồi bay qua không lọt khỏi mắt!


      Những chuyến giang hồ vặt không một đồng xu dính túi; cái miên man cuốn hút khi dông dài giữa đám cầm bút nhà nghề, những chuyến viễn du, mãi tận Huế, tận Sài Gòn, Dầu Tiếng, cái tự nhiên không dễ có khi một mình về công tác tại một bản Mèo thấp thoáng giữa triền núi cao... bao nhiêu từng trải, như còn in dấu vào cách sống, cách chuyện trò của Tô Hoài hôm nay.


       Bên cạnh cái nhũn nhặn lảng tránh, con người ấy thật cũng đã nhiều phen phải dàn mặt, phải chịu trận, -  nói chung là phải đối chọi với đời và nếu như có lúc phải đầu hàng thì đó cũng là bước đường cùng, rồi, nín nhịn chẳng qua để tồn tại, và sau hết, để được viết.


     Ấy là cái điều không chỉ Tô Hoài biết mà nhiều người cũng biết.


      Trong đời làm báo, nhà phê bình Nguyễn Thị Ngọc Trai phát hiện cho mình một kinh nghiệm: khi nào có vấn đề gì cấp trên buộc phải làm, tức báo buộc phải lên tiếng, và không ai muốn viết, vì sợ mang tiếng xấu, thì hãy đến nhờ Tô Hoài. Thế nào ông cũng có bài nộp báo đúng kỳ đúng hẹn, ký tên Tô Hoài hẳn hoi. .Nghĩa là đăng được. Mà vẫn chẳng ai làm sao, bởi đọc qua người ta cũng biết ngay là người viết và tờ báo bị  ép phải làm vậy, chứ trong bụng nghĩ khác.


      Đại khái, có thể hình dung như cái cảnh đứa trẻ bị buộc phải quỳ, thì cũng quỳ đấy, song mắt vẫn liếc về phía mọi người đùa bỡn “Xá gì chuyện này, quỳ cho xong nợ, tí nữa lại tha hồ tung tẩy”.


    Tô Hoài không ngại viết thế này thế kia làm hỏng ngòi bút, bởi ông tin chắc rằng ngòi bút ông thế nào, người ta đã hiểu cả rồi.


     Chỉ có những biển lớn mới chứa được những dòng sông bẩn, --cái nhận xét của ai đó, đặt vào trường hợp Tô Hoài thấy không có gì gượng gạo.


     Có một thoáng gì đó, như là một chút hư vô trong con người thực dụng Tô Hoài chăng? Một nhận xét như thế là đầy mâu thuẫn, nhưng biết sao được, con người mỗi chúng ta trong những năm này bị bao sức mạnh xâu xé, kể sao cho xiết!


      Một chút khinh bạc có từ rất sớm (bản thân Vũ Ngọc Phan vốn rất hiền từ cũng phải nhận ra và lên tiếng cảnh cáo, khi đọc Quê người, O chuột...), cái khinh bạc đó hẳn không bao giờ mất hẳn.


      Cộng thêm vào đó là bao nhiêu ngọt bùi cay đắng đã đến trong cuộc đời một người viết văn, một người cán bộ, những phút bốc đồng và những lần tỉnh mộng, những lầm lỡ và man trá xen lẫn vào giữa những chân thành ngây thơ, cuộc bể dâu diễn ra ngay trước mặt.


     Khi đã trải tất cả những sự đó rồi, cái hư vô sẽ như một thứ ánh sáng mờ mờ giúp cho người ta sống nhẹ nhõm hơn và tự do hành động hơn. Lúc này, hư vô đã trở thành một điều kiện bắt buộc để sống, hư vô là một thứ thuốc an thần cho những kẻ ham hành động, nhưng lại hoàn toàn tỉnh táo, để hiểu rằng hành động của mình cũng rất có thể chỉ là vô nghĩa.


     Không chỉ một lần, hình ảnh phù du như một ám ảnh trở về trong một số trang văn hồi ký, nó là những trang mang nặng tâm sự Tô Hoài.


     Những khi có việc đụng chạm đến toàn bộ cuộc đời viết văn của mình, ông phải nhớ tới nó.


      Là phù du, những năm tháng dong nhan chơi bời viết lách trước cách mạng.


      Là phù du những chuyến viễn du mãi tận phương trời xa thẳm.


     Mà cũng là phù du, những khi cố gắng viết nốt những trang cuối cùng của một quyển sách tầm tầm. Tưởng đã qua hẳn rồi, nhưng không phải, làm sao quên được sự phù du khi hàng mớ năm tháng quàng lên vai, càng sống càng thấy nhiều điều ngang trái.


      Có cần nhìn đi đâu xa, hãy nhìn cuộc đời những đồng nghiệp gọi là thành đạt sống ngay bên cạnh:


     Nguyễn Tuân được tiếng ngang ngạnh, rồi cũng là một Nguyễn Tuân phải khéo xoay sở để tạo ra cảm giác không bị ai quên, và nhất là một Nguyễn Tuân buông xuôi bất lực, muốn đi mà không đi được, muốn nói khác mà không nói được, khối cái đã tính nát ra định viết lại thôi.


     Xuân Diệu loay hoay giữa những bài thơ thù tạc và những bài nói chuyện đi theo lối mòn, Xuân Diệu nhuộm tóc cố làm ra trẻ, ham ăn ham uống, lúc chết mỡ quấn vào tim.


     Một Nam Cao tâm huyết lại mất sớm, coi như đã xong.


      Nhưng bao kẻ sống sót sau những cơn giông tố, mấy người sống được đúng tầm người của mình, hay lại chui lủi trốn tránh, hoặc lá mặt lá trái, dối dá qua ngày?


     Sự khinh bạc muốn gạt đi, nó cứ tìm đường quay trở lại. Rồi chính mình cũng đánh mất mình và nhìn đi nhìn lại, chỉ có thời gian là chiến thắng, là không thể đảo ngược.


    Cái phương châm sống cuối đời rút lại là ở hai điểm:


    Một là làm thật nhiều muốn viết gì thì viết, không định bụng thế này thế kia, mà cũng không sợ mang tiếng khi viết.


    Hai là không coi mình là quan trọng, chấp nhận hết thảy. Giữ được từng phút cảm động ngạc nhiên nho nhỏ, nhưng không còn gì ngạc nhiên trên những cái lớn.


    Thực hiện điểm thứ nhất thật không gì dễ hơn, nhất là khi người ta đã có trên 150 đầu sách như Tô Hoài.


    Còn điểm thứ hai ? Bảo là biết điều, là khiêm tốn có lẽ không phải.


   Ai đâu còn trẻ con thế!


    Sống cho nhẹ nhõm là cách tốt nhất để bảo toàn mình.


    Lại nhớ những câu Kiều mà thuở mới lớn, đã cùng với nhiều bạn thợ cửi, ngâm đi mgâm lại không biết chán:


Nàng rằng thực dạy quá lời


Thân này còn dám coi ai làm thường.


     Loanh quanh một hồi hoá ra chưa thoát khỏi chỗ xuất phát ban đầu?


      Nhưng với Tô Hoài lúc này, mọi sự khen chê không còn ý nghĩa. Trong cái thế kỷ đa đoan chúng ta đang sống, dẫu sao ông cũng đã luôn luôn dập dềnh trên mặt sóng.


      Tháng bảy và tám 1997, ông đến Đà Lạt ngồi viết xong một tập hồi ức, có tên là Chiều chiều.


      Ai mà chẳng đoán ra cái  chủ tâm của nhà văn là muốn dựng lại không khí “ buổi chiều của cuộc đời”. Nhưng ông vẫn không quên đưa  thêm hai câu ca dao cổ làm đề từ :   


--Chiều chiều lại nhớ chiều chiều.


Nhớ người đãy gấm khăn điều vắt vai


Cho có vẻ tơ liễu và lửng lơ đôi chút.  Âu lại cũng vẫn những cái tạng Tô Hoài. Chính tác giả san sẻ đôi hồi vớí tôi như vậy.


             Về phần mình, tôi nhớ trong Những người thợ cửi, -- một ghi chép những đoạn riêng tư của Tô Hoài hồi ông mới tìm cách nhập vào cuộc sống  -- có một câu bỏ nhỏ. Câu than của một người trẻ trước cảnh trớ trêu. Câu than bâng quơ mà cứ bám vào trí nhớ:


-- Sao những chuyện buồn khổ trong cuộc đời lại hay xẩy ra vào lúc chiều chiều thế này !







Viết 2001. Đã in trong Cây bút đời người, 2002