Thứ Tư, 29 tháng 10, 2014

Đâu là nguyên nhân mọi yếu kém của người Việt ?


Trên FB Nhân Thế Hoàng, hôm nay 30-10-2014, tôi đọc thấy đoạn văn sau đây:


Nhiều bạn bè trong nước cứ chê rằng: Người Việt mình xấu
xí, lười nhác, giỏi làm thầy hơn làm thợ nên đất nước mới không phát triển chứ
không phải do đường lối chính sách, vì đường lối chính sách đưa ra là đúng chỉ do
người thực hiện không làm đúng theo chỉ thị mà thôi.




Cái này là điệp khúc mà mấy bạn trẻ cuồng đảng hay phát ngôn để bảo vệ khi có ý
kiến trái chiều chê trách về các vấn đề xã hội hay tình trạng bê bết của nền
kinh tế hiện nay.


Thế bạn có biết, cũng là người Việt nhưng năng suất lao
động của 3 triệu người Việt ở Mỹ tương đương với năng suất lao động của 90 triệu
người Việt trong nước hay không? Con số 100 tỷ USD tạo ra hằng năm của 3 triệu
người Việt ở Mỹ đã nói lên điều đó, điều này chứng minh người Việt không thua
kém bất cứ dân tộc nào trên thế giới về độ thông minh, cần cù, chịu khó, chỉ là
do bị kèm cặp quá nên 90 triệu người trong nước mới làm việc kém năng suất và
hiệu quả như vậy. Người xưa có câu: "Cây quýt trồng ở đất này thì ngọt mà
mang sang đất khác thì chua", và lạ thay cây quýt Việt thường chua ở xứ
mình nhưng lại ngọt ở xứ người!





Xin ghi nhanh ở đây mấy suy nghĩ của bản thân tôi về chuyện này:





Lịch
sử vấn đề


Nhiều thói hư tật xấu ở
người Việt mà chúng ta mới phát hiện, theo tôi, đã có từ thời trung đại, từ thế
kỷ XIX về trước.


Khi làm chuyên mục những lời cảnh tỉnh của người xưa, đăng
trên TTVH hồi 2005-2007 và sau có đưa vào blog cá nhân, tôi chủ yếu lấy ý kiến
của các nhà trí thức VN đầu thế kỷ XX.


Đối tượng phê phán của
họ là cách sống cách suy nghĩ làm ăn của người Việt trước khi bước sang thời hiện
đại, tức là trước khi chuyển qua thời Pháp thuộc. Bản thân các trí thức này sở
dĩ có cái nhìn sáng suốt đó cũng là sau
khi theo học ở các nhà trường người Pháp mới mở, có được cách nhìn cách nghĩ của
phương Tây.





Từ sau 1945, yếu tố tự
phê phán trong tư duy người Việt ngày càng thui chột, các trí thức được đào tạo
sau cách mạng khi suy nghĩ về người Việt chủ yếu làm nổi bật các mặt tích cực
trong tính cách người Việt. Để làm gì? Để động viên người ta đi đánh giặc.Vì cái mục đích cao cả nhưng lại thiển cận ấy, cho phép mình khen lu bù, "khen cho nó chết", không cần biết hậu quả sẽ tới.





 Trong và sau chiến tranh, nhiều thói xấu cũ của
người Việt càng cô kết đậm đà sâu sắc hơn, người ta lại hay giở lý ra để tự biện
hộ. Chỉ đến khi bắt tay vào việc làm ăn sinh sống theo nhịp sống bình thường, gặp
nhiều cú sứt đầu mẻ trán, thì cái nhu cầu tự phê phán kia mới trở lại.


 Nhưng dùng lại một câu trong Truyện Kiều -- rằng quen mất nết đi rồi, -- chúng ta thiếu hẳn những nhà nghiên cứu
 nhìn sâu vào các quá trình tâm lý xã hội
và xem xét sự phát triển của cộng đồng trong chiểu dài lịch sử, đối chiếu với
những chuẩn mực phổ quát của con người hiện đại, từ đó làm cuộc phân tích toàn
diện để giúp cho cả cộng đồng có được một cuộc tự nhận thức chính xác. 


Các lời
bàn cãi hiện nay còn loanh quanh và thiếu sức thuyết phục, nhiều khi lại đi lạc hướng.





Tại
sao lại có hiện tượng ở trong nước thì dở, ra nước ngoài mới tử tế?


Dẫn chứng mà bạn Nhân
Thế Hoàng nêu lên là không thể cãi được.Theo tôi nó chỉ chứng tỏ, cái hay cái tốt
ở người mình không bền chắc. Chỉ khi bị buộc phải làm theo sự chỉ đạo của người
khác, chúng ta mới dứt bỏ được thói quen cố hữu từ ngàn đời ông cha để lại để
có thể sống và làm việc như mọi con người tử tế khác trên thế giới.


Chính trường hợp 3 triệu
người VN ở Mỹ mà bạn Hoàng nêu là nằm trong hoàn cảnh đó.


Trở lại với đầu thế kỷ XX.
Tôi nói điều sau đây với tâm lý rất ngần ngại – nó đi ngược với những điều tôi
cùng với mọi người quen cho là như vậy nhưng nghĩ đi nghĩ lại thấy không tự bác
bỏ được nên buộc phải nói  -- đó là,
chính do sự bảo trợ của người Pháp, sống trong một nhà nước do người Pháp quản
lý, mà người Việt có được sự thay đổi trong tính cách và có những bộ phận đạt
được cách sống cách suy nghĩ trình độ làm việc của con người hiện đại.


Kết luận tạm thời của
tôi: chúng ta là một cộng đồng kém về năng lực tự quản lý. Trong những điều mà
chúng ta học được từ văn hóa Trung Hoa, cái chúng ta học được ít nhất là văn hóa
tổ chức xã hội, văn hóa quyền lực. Cai trị học – bên Trung quốc người ta gọi là
trị
quốc chi đạo
-- là cả một vấn đề lớn, muốn có kết luận
thuyết phục cần trở lại với các tài liệu lịch sử, phải nhiều người mới làm được, tôi chỉ nêu sơ sơ như vậy.





Dưới đây để chứng minh cho ý kiến trên, tôi lấy thêm một số ví dụ không phải trong khu vực chính trị mà chỉ là trong phạm vi đời
sống thông thường.





Trong thế kỷ XX,
chúng ta bắt đầu có những nhà khoa học tự nhiên đạt chuẩn quốc tế. Nhưng nhìn
vào tiểu sử của họ ta thấy ngay không người nào trong họ là không trải qua việc
một thời gian dài học ở nước ngoài. Thực tế VN, nền giáo dục VN không thể đào tạo
ra họ. Ngô Bảo Châu – cũng như Tôn Thất Tùng, Trần Đức Thảo  trước kia -- không chỉ là hiện tượng của văn
hóa VN mà còn là hiện tượng của văn hóa Tây phương, trước tiên là văn hóa Pháp.
Sao ta lại cứ cố quên như vậy?





Trong phạm vi hướng
nghiệp cho con em trong các gia đình bình thường, chị Phương Quỳnh bạn tôi có lần
kể cho tôi chuyện sau. 


-- Con mình học khá giỏi, nhưng đi làm cho các ông chủ
trong nước một hồi, thấy đằng nào cũng chết. 


Làm cho nhà nước thì gặp toàn những
ông dốt, lại còn cái lối phong kiến cổ lỗ, coi bọn mới ra trường như kẻ ăn
người ở, chuyên sai vặt.


 Làm cho tư nhân - nhất là tư nhân xuất thân Hà Nội - cũng phần lớn là bọn trương ra cái biển
thật to để dọa thiên hạ, chưa làm đã lo buôn lậu với lại đi hối lộ cấp trên
cùng là sẵn sàng cạnh tranh với các đồng nghiệp bằng mọi thủ đoạn man rợ. 


 Và Phương Quỳnh khuyên:

-- Các cậu
có con bây giờ thì phải tính trước đi, cố
hướng con cái kiếm được việc cho các hãng nước ngoài, ở đó cắn răng mà học lấy
nghề thì mới nên người được.





Vài điều tôi tạm rút ra cho mình:


+ Xã hội VN từ nhiều thế kỷ nay chỉ được tổ chức
theo những nguyên tắc quá đơn giản. Việc quản lý con người  theo nghĩa đầy đủ nhất của chữ này chưa bao giờ được
coi như một nghiệp vụ mà người ta phải học hỏi mới làm được. Cái khó nhất với nhiều người Việt có năng lực là tìm ra ông chủ xứng đáng với mình.





+ Chính vì chúng ta không có những nhà quản lý giỏi,
những ông chủ giỏi mà mọi nghề nghiệp trong xã hội đều cứ mãi mãi lạc hậu, và
trước mắt chỉ đi làm ăn dưới quyền chỉ đạo của người nước ngoài, ta mới khá lên
được.




+Chỉ lúc đó, ta mới có quyền tự hào. Chỉ lúc đó, dân
ta mới sửa được những tính xấu cố hữu như lười biếng dối trá ăn cắp …và – cho  tôi bổ sung thêm một thói xấu nữa -- là chỉ giỏi
cãi bừa cãi sằng, hễ ai động vào tử huyệt của mình là chửi người ta thiếu thiện
chí. 

Thứ Hai, 27 tháng 10, 2014

Ghi chép trong tuần ( 20-26/10/2014)


      21-10


   Tuổi già xứ mình 


      Trang viet-studies  mấy hôm trước in bài Tuổi già là thời sung sướng nhất. Đọc vào thì thấy người già ở xứ
người --kể cả người Việt-- sao mà dễ sống. Luôn luôn họ tìm được sự bằng lòng. Mọi cái ở nơi khác
coi là bất hạnh – chẳng hạn vợ chồng về già còn ly dị -- cũng được các vị ấy “tiêu
hóa” một cách dễ dàng.


       Tôi ước ao có một ai đó ngồi tổng kết về
tuổi già ở xứ mình.




      Trong một phản ứng tức thì, tôi chỉ thấy rằng
người già ở trong nước đang rất khổ với nghĩa cả khi về già có được đời sống tạm đủ ăn,
thì cũng luôn có gì đó như là bất mãn. Thấy tiếc quãng đời trẻ, muốn truy lĩnh
muốn hưởng thụ bù vào những ngày lê lết trong khốn  khổ. Lại có đôi người tự thấy rằng  năng lực của mình chưa được thể hiện hết, nay
lao ra hoạt động còn năng nổ hơn trước, và hoạt động nhiều khi khá kệch cỡm. Trong khi đó, ngoảnh lại nhìn những người
thân trong gia đình, thấy ngạc nhiên. Sao mình lại có thể chung sống hàng bao
nhiêu năm với người chồng hay người vợ như thế này? Đứa con nay đã trưởng thành
này có phải là đứa nhỏ mà xưa kia mình đã từng chăm bẵm?  Có cái bực bội nó khiến người ta muốn thoát sớm
cho rảnh. Ngay lúc ấy lại có cái tỉnh táo tin rằng chả làm sao trốn khỏi cuộc
đời này…Tuổi già là trong ê chề, tuổi già là trong bất lực.


22-10


Đưa tin về hội thảo


Khi
đưa tin các  cuộc hội thảo của giới văn học
nghệ thuật ở ta, nhiều tờ báo có lối hết sức tắc trách là chỉ đưa mấy dòng vắn
tắt, còn trong hội thảo những người tham gia nói gì không ai được biết.  Một việc cũng buồn cười nữa là trong hội thảo
đó, có những nhà chuyên môn nào không  được
báo nói tới,  trong bài báo chỉ thấy xuất
hiện mấy cái tên lạ. Tên những nhà quản lý đã tới, dù có khi họ chỉ tới để nói mấy câu lất phất.


 Báo Tuổi
trẻ
hôm nay đưa tin vừa có cuộc họp để bàn về giải pháp chống ngập ở một số
địa điểm, trong cuộc họp đó  cấp trên của
thành phố đã tính là sẽ  “lo mời các nhà
khoa học tham gia”. Đọc đến đấy tôi cứ tự nghĩ, thế hóa ra lâu nay các ông chỉ tự
mình nghĩ rồi tự mình lệnh cho cấp dưới làm, chưa bao giờ cần để ý gì tới các chuyên gia sao? Thả
nào …


23
– 10


Một thoáng liên tưởng


Một
mẩu tin ngắn về biểu tình ở Hồng Kông tóm gọn như sau: Với các quan chức Bắc
Kinh, “một đất nước” là ưu tiên then chốt. Còn với đa số người Hồng Kông, “hai
chế độ” là điều họ quan tâm nhất.


Liên
hệ tới hoàn cảnh nước mình. Nhớ cái câu tiêu đề trên mọi đơn từ bọn tôi viết hồi
nhỏ “Việt Nam dân chủ cộng hòa” rồi nhớ tới tình hình dân chúng hiện nay. Có vẻ
như cũng có một tình hình tương tự. Sáu bẩy chục năm nay, cấp trên thì chỉ nghĩ
đến hai chữ Việt Nam. Còn với nhân dân, càng ngày họ càng thấy mấy chữ dân chủ cộng hòa mới là thiết
yếu. Với cả  hôm nay và  ngày mai.





24-10


Nguyễn Huy Tưởng và những tư tưởng
Nhân văn Giai phẩm


Nhân
Đèn cù, tôi tẩn mẩn giở mấy cuốn hồi ký của các tác giả khác ra đọc, và dừng lại lâu hơn một chút ở Nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng, nhất
là đoạn 1956-57. Hóa ra, không chỉ có mấy ông sau này mắc nạn đã viết ra những
thứ in trong Nhân Văn Giai phẩm mà hồi
ấy bao nhiêu người đã nghĩ thế, chẳng qua họ có công khai nói ra hay không.


 Tới hồi chống Mỹ, nhiều người còn nói vào tai
tôi, với cái tính thẳng thắn của mình, chắc ông Nam Cao lúc ấy còn sống thì cũng dám chơi lắm. May ra thì cũng chỉ làm  như ông Nguyên Hồng. Nghĩa là bỏ đi đâu đó, chứ không thể chịu cái cảnh này được.





Đối
chiếu những variant ( bản in khác
nhau )của Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng đầu
1957, lại thấy giữa bản của  nhà Thanh niên 2006 -- được coi là hoàn chỉnh
nhất, với mấy trang rời in trên một số  của
tạp chí Đất Quảng 1990,  có những đoạn mà năm 1990 đã in, tới 2006, bị
cắt bỏ hoàn toàn.


 Sau đây là đoạn nhật ký 17-2-57, liên quan
không chỉ tới họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, mà còn là với những vấn đề lớn như đường lối
quần chúng trong văn nghệ , hoặc cách thức lãnh đạo chỉ đạo của Tố Hữu lúc đó.
Những dòng in đậm là những dòng vốn đã in ra 1990, nay đến 2006, bị tước bỏ.


Anh em văn nghệ rất khó chịu vì bài  của Nguyễn Đỗ Cung. Cung thẹn vì đã học mỹ
thuật Pháp, nói không cần kỹ thuật, quần chúng là quyết định
.
Thảm hại cho người nghệ sĩ già lẩm cẩm
.
Cứ nội dung là quyết định nghệ thuật ư? Y như thấy có người chết đuối là cứ lao
xuống nước  để cứu, nhưng anh lại chết với
người kia, chỉ vì không biết bơi *,
thảm
hại cho cái quần chúng chủ nghĩa của Cung.


Rồi nghệ thuật sẽ đi đến đâu? Lãnh đạo thì bóp nghẹt. Quần
chúng thì bị lái đi theo  lãnh đạo. Mọi ý
kiến  mới đều bị coi là phản động, bị đả
kích mạnh.


 Cái biểu tượng của gu quần chúng. Hội họa ta
không có (**)


(*) So sánh này quá gượng gạo (**) Không rõ ý – VTN


Mấy
câu cuối  thật đã đậm chất Nhân văn quá, không biết lúc ấy ông Tưởng
có dám nói hay chỉ nghĩ mà ghi vào nhật ký. Ghi vào thế này còn khá, nhiều người
không dám ghi nữa kia.


    25-10


 Công
chúng và sân khấu  


 Đạo diễn Nguyễn  Đình Nghi hồi trước đã hay nói với tôi rằng
cái được của sân khấu tiền chiến là họ có một lớp công chúng ưu tú rất yêu và
hiểu nghệ thuật. Đối lập lại ông cũng nói thêm là công chúng sau cách mạng càng
ngày càng hỏng. Bước vào thời kinh tế thị trường, người ta vào rạp còn cắn hạt
dưa tanh tách và nói chuyện rất ồn ào. Cứ chỗ nào được phỉnh nịnh và gãi đúng
chỗ ngứa thì hoan hô, ngoài ra chê tất.




Tuần
qua đọc báo lại thấy nói tới tình trạng là bây giờ công chúng sân khấu quên mất thói quen  mua vé, mà chỉ chờ đợi được xem tháo khoán. Tức
là lại cũng một dạng của bệnh vô cảm?
Đúng. Mà cũng không đúng. Vì cái gọi là nghệ thuật sân khấu hôm nay đâu còn có
quyền gọi là nghệ thuật nữa. Nghệ thuật nào công chúng ấy.

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2014

Biện hộ cho sự vô cảm



NHỮNG BIỂU HIỆN TẾ NHỊ

Từ dưới bãi một em nhỏ lên cầu Long Biên, cất tiếng chào khi tôi dắt xe từ cầu đi xuống. Lẽ ra tôi phải sung sướng vì gặp được một đứa trẻ ngoan mới phải. Sao lần này cứ thấy gờn gợn. Mãi mới nghĩ ra. Đứa trẻ chỉ chào lấy lệ. Em chẳng hề quan tâm tới tôi, chả đặt một thoáng tình cảm nào vào lời chào của em. Và có vẻ đó không phải là một đứa trẻ ngoan nữa, một ấn tượng bao trùm đọng lại trong tôi.



Mặc dù biết vậy, tôi vẫn không khỏi… tủi thân. Nhất là buồn cho một con người mà mình vừa gặp.

Muốn gọi đó là sự vô cảm.

Tự nhủ chung quanh mình đang có một sự vô cảm thường trực. Bận bịu quá, nhiều thứ thu hút quá, con người hiện nay không còn những xúc cảm bình thường mà con người các thế hệ trước 1945 thường trải nghiệm.

Khi nói tới sự vô cảm, dư luận hôm nay chủ yếu muốn kêu gọi lòng trắc ẩn, tức là thương xót cảm thông với những bất hạnh.

Nhưng tôi cho là lẽ ra phải nói rõ đấy là việc con người không còn đặt tình cảm suy nghĩ vào những người quanh; trừ những việc liên quan đến quyền lợi thiết thân còn không muốn biết một cái gì khác; không còn phân biệt tốt xấu theo nghĩa nhân bản; và không còn nghĩ nhiều tới tương lai. Họ rơi vào tình trạng Đã bao lần tôi không thực là tôi(Lê Đạt).

Không chỉ vô cảm trước tai họa mà còn không được vô cảm trước các tài năng, trước vẻ đẹp, trước sự cao quý của con người. Cái đó ngày càng thấy rõ là cần trong một xã hội bị thống trị bởi chủ nghĩa bình quân và tràn ngập những yếu tố vật chất.



NGUỒN GỐC CHIẾN TRANH

1427. Trong khi vây thành Đông Quan, theo Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, Lê Lợi không quên đặt pháp luật để trị quân cũng như quản dân.

Mười điều kỷ luật được đặt ra để răn dạy cho tướng sĩ. Ngoài những điều như phải tiến thoái theo hiệu lệnh, giữ vững hàng ngũ… đặc biệt có thêm ba điều cấm sau đây.

Điều 2 ( CẤM) Không có việc gì mà đặt chuyện ra để làm cho mọi người sợ hãi

Điều 8 ( CẤM) Tha binh đinh ( trai tráng bị động viên đi lính – VTN ) về để lấy tiền ; sổ sách mập mờ.

Điều 9 ( CẤM) Theo bụng yêu ghét của mình mà làm lòa mất công quả của người khác

( sđd, bản của nhà Tân Việt, 1951, tr 218; còn bản của nxb Thanh Hóa in 2006 thì ở tr 232)

Tình hình thực tế phải thế nào thì mới có lệnh cấm đó chứ ?!

Điều thú vị là có những căn bệnh của người xưa lại có sắc thái khá hiện đại.

Cũng trang sách trên có ghi:

Vương, tức Lê Lợi đặt ra ba điều để răn các quan:

1/Không được vô tình

2/không được khi mạn ( coi rẻ xem thường mọi người -VTN )

3/không được gian dâm

Chỗ đáng chú ý ở đây là thói vô tình ( cũng tức là vô cảm, thờ ơ… ) được đặt lên hàng đầu.

Hóa ra chiến tranh thời nào cũng vậy.



MỘT HÌNH THỨC TỰ VỆ

Tuy nhiên cũng đã đến lúc phải biện hộ cho sự vô cảm theo nghĩa thông thường.

Hãy bắt đầu bằng một sự thực -- con người hôm nay đang chịu những áp lực rất lớn. Họ không hề được chuẩn bị để đón nhận. Muốn tồn tại họ phải giữ được thần kinh cho vững, nói như các cụ xưa, phải đắp tai cài trốc, mới có cơ may giữ được sự an nhiên tự tại bình tâm mà sống cái đời sống thông thường.

Không vô cảm thì sẽ ngớ ngẩn, sẽ phát điên. Vô cảm đã thành hình thức tự vệ.

Ví dụ như trong chiến tranh, làm sao một người bình thường có thể bình thản trước việc con em mình đi vào chiến trường với cái chết cầm như chắc chắn, chỉ may mắn lắm mới sống sót, rồi có trở về thì cũng sẽ gia nhập vào hàng ngũ của cái thế hệ vứt đi (lost generation – cái chữ mà Hemingway có công đưa vào lịch sử văn học).

Nhưng người ta vẫn phải gạt nước mắt cho con ra đi.

Có khi lại còn phải tỏ ra vui vẻ nữa.

Người ta đã trở nên vô cảm.

Sang thời phát triển nhố nhăng kỳ cục hiện nay, chứng kiến bao chuyện chướng ta gai mắt, người ta vẫn phải im lặng quay đi coi như không biết. Thấy kẻ cắp trên xe bus mà kêu lên ấy ư, anh sẽ bị trả giá ngay. Tố cáo cấp trên tham nhũng là đồng nghĩa với việc chuẩn bị sớm muộn sẽ nhận lệnh đuổi việc. Còn khi có ý định tham gia vào những vụ cứu trợ cho các vùng bị tai nạn, thì có một nguyên tắc là anh phải không được theo dõi xem các loại hàng cứu trợ đó sẽ được sử dụng ra sao.



MỘT VẤN ĐỀ CỦA ĐỜI SỐNG HIỆN ĐẠI

Vô cảm không chỉ là chuyện của người Việt mà còn là chuyện của thế giới hiện đại.

--Nhớ lại hồi còn thời chuyên chế, nhiều nhà văn Liên xô cũ kể là nhiều khi đối diện xã hội, họ thấy mà không dám nhìn kỹ, nghĩ mà không dám ghi lại, và ghi lại thì lại xé đi ngay, chỉ sợ táy máy gửi tới một tờ báo nào đó thì không những không được in ra mà còn bị các biên tập viên ở đó trình lên cấp trên và tên tuổi sẽ vào sổ đen của KGB.

-- Và đây, một cách diễn đạt về sự đầu hàng của con người hiện nay, nó đặt thái độ chấp nhận vô cảm trong xu thế không dám làm người – ngay cả ở mỗi cá nhân có suy nghĩ; và nó đúng với con người hiện đại nói chung chứ không phải người của phe nọ hay phe kia:



Thời đại chúng ta cốt yếu là một thời đại bi thảm, bởi thế chúng ta từ chối cảm nhận nó một cách bi thảm. Cuộc đại biến động đã xảy ra, chúng ta ở giữa những đổ nát, chúng ta bắt đầu xây dựng những túp lều trú ngụ tạm bợ và dấy lên chút hy vọng nhỏ bé mới. Đó là một công việc khá nhọc nhằn. Bây giờ không có một con đường bằng phẳng nào dẫn tới tương lai, nhưng chúng ta sẽ đi vòng quanh hoặc bò qua những trở ngại. Chúng ta phải sống thây kệ bao nhiêu bầu trời đã sụp.

(D.H.Lawrence, nhà văn Anh, 1885-1930 tác giả Người tình của Chatteley phu nhân).

Thây kệ ở đây chính là thói vô cảm chúng ta đang nói.



Cố nhiên vô cảm, nói theo nghĩa khá đa dạng, có phần giống như một loài thuốc đặc trị. Nếu dùng quá liều, sẽ gây chết người như chơi.

Công thức cần theo là làm sao giữ được thế bình quân giữa thái độ thản nhiên trước mọi biểu hiện tạp nham hàng ngày và cảm xúc nhạy bén thường trực trước những vấn đề lớn của cộng đồng của dân tộc. Đây là cả một thách thức với những con người luôn luôn coi các vấn đề xã hội là chuyện của bản thân, cả chuyện lớn lẫn chuyện nhỏ.

Thứ Ba, 21 tháng 10, 2014

Tìm hiểu chính sách đào tạo lớp trí thức mới của nhà nước Nga Xô Viết để hiểu trí thức được đào tạo ở Hà Nội sau 1954


  Tập tiểu luận  Về trí thức Nga ( La Thành và Phạm Nguyên Trường dịch, nxb Tri thức H. 2009)  gồm có nhiều bài viết xuất sắc


+ Chân lý của triết học và sự thật của người trí thức 


+ Khủng hoảng trí tuệ và sứ mệnh của tầng lớp trí thức cả hai cùng của  tác giả N.A. Berdaev


+ Tầng lớp kỹ giả -- Alekssandr Solzhenítsyn


+ Phẩm tính trí thức -- Dmitri Likhachev



Riêng bài Bàn về  số phận của tầng lớp có học ở Nga của Sergey Kirilov thì bàn sâu vào lớp trí thức Nga sau 1917. Tầng lớp này  đã được quan niệm như thế nào, nhà nước xô viết đã hình thành họ theo những cách thức ra sao, tại sao giới trí thức Nga  lại có bộ mặt như chúng ta đang thấy, tại sao trong thời đại mới,  đa số những người này dừng lại ở cái trình độ thảm hại và kèm theo  những suy đồi  về đạo đức quá rõ so với trí thức Nga trước Cách mạng.


Chúng tôi lược thuật  bài này, cốt để các bạn xa gần qua đó, từ trí thức Nga sau 1917, có thể hiểu thêm về lớp trí thức được đào tạo ở Hà Nội sau 1954.


Trong cơn thức tỉnh sau chiến tranh, nay là lúc xã hội thường hay chê trách lớp trí thức này về mọi mặt.  Nhưng nếu hiểu được người trí thức ở ta là thế và được nhào nặn như thế, chúng ta sẽ độ lượng với họ hơn với nghĩa… bớt hy vọng ở họ hơn.




Cũng như ở các nền văn hóa khác, nền văn hóa Nga trước 1917 mang tính thượng lưu. Lí do, chỉ có một số người có thể làm được việc mà đa số không thể làm nổi. Trí thức nói chung chỉ chiếm tối đa 10%, còn thấp nhất là 2 - 3%. Ở các cộng đồng khác đã vậy, ở Nga trước 1917 cũng vậy.


Đến thời Xô Viết, có một xu thế chỉ đạo việc đào tạo, đó là tạo nên giới tri thức không có sự tách biệt với dân chúng như thời Nga hoàng. Để làm được việc đó, người ta xóa bỏ những chuẩn mực cần thiết, tạo ra một lớp trí thức yếu ớt phàm tục, không có khả năng độc lập mà phụ thuộc nhà nước, do đó sống chết cũng phải trung thành với nhà nước. Tầng lớp trí thức này luôn luôn được bổ sung bởi các bộ phận ít học là quần chúng công nông, cho nên nó chỉ có trình độ rất thấp và một cấu trúc dễ bị phá vỡ.





Từ căm ghét đến tiêu diệt trí thức cũ và thay thế bằng trí thức mới


Chính quyền Xô Viết có một niềm căm ghét đặc biệt đối với nền văn hóa trước cách mạng, tồn tại trong lòng nó một giai tầng có học mang tính hiện đại. Do yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, những năm đầu, họ phải sử dụng tạm thời lớp trí thức đó, nhưng nhanh chóng tìm cách dần dần thủ tiêu những người này  -- cả với nghĩa đen lẫn nghĩa bóng là làm biến chất họ --, thay vào đó là những người của mình.


Cách mạng đặt ra mục đích tiêu diệt trí thức đồng thời tiêu diệt văn hóa cũ.


Mặc dù số trí thức tham gia nội chiến không nhiều, nhưng đại diện của tầng lớp trí thức vẫn chiếm từ 80 – 90% những người chống đối việc thiết lập chế độ Bolsevik. Lúc ấy  một phần lớn trí thức Nga  là người trong quân đội.


Vào năm 1917, tất cả những người có học, trong độ tuổi nghĩa vụ, đều là sĩ quan.


Những người Bolsevik nhận thức rõ kẻ thù thật sự của họ trong cuộc nội chiến không phải là bọn tư sản và địa chủ, mà chính là tầng lớp trí thức có quân hàm hoặc không đeo quân hàm.


Cuộc khủng bố đỏ được tiến hành nhằm vào tầng lớp trí thức ấy.


Các lãnh tụ Bolsevik coi việc giai cấp vô sản đã bẻ gãy được ý chí của tầng lớp trí thức là sự bảo vệ tốt nhất cho thắng lợi của cách mạng trong tương lai. Và cái mục đich cao cả ấy được dùng để biện hộ cho những hành động phản tiến hóa của họ.


Sự đàn áp thô bạo, nạn đói, bệnh dịch – vốn là hậu quả của cách mạng – làm mấy trăm ngàn trí thức thiệt mạng, một số thì lưu vong.


Những người còn sống sót thì bị thù ghét. Họ không có chỗ đứng trong các sơ đồ mác - xit bởi lúc nào cũng làm vướng cẳng các lí thuyết gia mác - xit. Theo quan niệm của những người xây dựng xã hội mới thì trong tương lai tầng lớp này sẽ không còn. Hệ thống giáo dục có mục đích tạo ra “một sự đồng nhất về mặt xã hội” (tương tự  như Việt Nam từng  có khẩu hiệu Trí thức hóa công nông và công nông hóa trí thức -- VTN)





Đào tạo lớp người thay thế.


Bùng nổ về số lượng đi đôi với sự hạ thấp chất lượng


Tầng lớp trí thức Nga trước cách mạng có số lượng tương đối nhỏ, khoảng từ 2- 3 triệu người tức khoảng 3% dân số.


 Ngược lại, dưới chính quyền Xô Viết, sự phát triển trí thức lại có tính cách ồ ạt, nhà nước chủ trương một sự phát triến nhanh chóng và giả tạo số người có học.


Tại sao cần vậy?


 Luôn luôn trong giới trí thức cũ, người ta nhận ra những chuyên gia nổi loạn.


Nảy sinh nhu cầu thay thế.


Nhưng cái mà người không thể làm được là chất lượng.


Vậy phải bù vào bằng sự  dư thừa số lượng để tạm an lòng.


Hầu như trong tất cả các giai đoạn lịch sử, người ta đều cố gắng thúc đẩy việc đào tạo các chuyên gia và phát triển hệ thống trường học. Mục đích là “biến tất cả mọi người thành trí thức” và không để cho giai tầng này được hưởng đặc quyền đặc lợi nữa. Tốc độ đào tạo kỹ sư và chuyên gia các ngành khác nhau vượt xa nhu cầu của nền kinh tế và được quyết định chủ yếu bởi nhu cầu chính trị và tuyên truyền.








 Có thể thấy sự gia tăng đột ngột số lượng người có học diễn ra trong những năm 1930 qua các con số - chỉ trong một chục năm lớp người này đã gia tăng gần 300%, riêng số người có bằng đại học và trung học chuyên nghiệp gia tăng 360%.


 Cú bùng nổ thứ hai diễn ra trong những năm 1950 – 1960, lúc đó trong một số ngành tốc độ phát triển lên đến 100% trong có một chục năm.


 Nhưng đặc điểm chung của cả hai giai đoạn bùng nổ này là  lớp tri thức mới có trình độ thấp hơn rất nhiều so với chuẩn mực trên thế giới.





Những trí thức xa lạ với văn hóa


Cuối những năm 80, cả Liên Xô có 87 triệu chuyên gia, trong đó 16 triệu người tốt nghiệp đại học. Sự phình ra một cách vô giới hạn tầng lớp tri thức dẫn đến hiện tượng giả tạo là mặc dù mức độ phát triển khoa học kĩ thuật và văn hóa xã hội của Liên Xô thấp hơn so với các nước phát triển ở châu Âu, nhưng lại đứng đầu về số lượng bác sĩ kỹ sư cán bộ nghiên cứu khoa học. Không chỉ về số lượng tuyệt đối mà Liên Xô còn đứng đầu tỉ lệ trí thức tính theo đầu người. Đồng thời lớp trí thức này lại được trả lương ở mức thấp nhất. Sự thấp kém nói ở đây không phải về giá trị tuyệt đối mà là thấp hẳn so với mức lương trung bình của cả nước.





Trở lại với sự so sánh trí thức cũ và mới. Nét đặc biệt của người trí thức mới là họ phải phủ nhận bản chất tinh hoa của mình. Kết quả là không có gì chung giữa tầng lớp có học hiện nay với lớp tri thức của nước Nga xưa.


Trong xã hội Xô Viết, một người bình thường (không phải nhân vật mà nhà nước đào tạo) gần với văn hóa truyền thống hơn là người có học kiểu Xô Viết.


Người bình thường ấy còn giữ khái niệm về một nền văn hóa chân chính.


Nhưng người bình thường ấy lại không phải là nhân vật chủ đạo của xã hội.


Người có học thời Xô Viết không hiểu gì về người trí thức trước cách mạng, cũng chả hiểu gì về châu Âu và văn hóa cổ điển. Họ bịa đặt ra một số nét đặc thù của văn hóa Nga, mà thực tế chỉ là thứ văn hóa bị hạ thấp và  đứng ngoài mọi chuẩn mực.





Hợp thức hóa tình trạng vô học của giới quan chức.


Không chỉ đẩy mạnh đào tạo và tăng nhanh sinh viên, người ta còn đề cử những người không có bằng cấp làm những việc đòi hỏi trí thức, bằng cách đó tạo ra một sự hỗn loạn mà chỉ chủ nghĩa xã hội mới có.


 Môt đặc điểm của bộ máy quan chức Xô Viết là sự phình ra vô tội vạ. Số lượng nhân viên nhà nước thời Nga hoàng tính tới 1917 là 576.000, tới 1923 – 1925  con số quan chức đã lên tới 2.230.000.


Vấn đề cắt giảm bộ máy phải nói đến thường xuyên, nhưng sát nhập, giải tán… chỉ là trò đùa. Không thể tưởng tượng nổi chế độ Xô Viết mà không có quá trình quan liêu hóa.





Việc làm giảm trình độ giới trí thức nói chung còn được thúc đẩy bởi việc có một số chuyên gia thực hành chỉ học theo lối hàm thụ cũng được đề bạt đặc cách.


Sinh ra hàng loạt chức vụ đòi hỏi đại học, việc này tạo ra đơn đặt hàng giả tạo với ngành giáo dục.





Người ta đòi hỏi có bằng cấp ngay cả khi đó là nghề lao động bình thường (kiểu đại học phòng cháy chữa cháy của Việt Nam VTN).


 Do hệ thống lương bổng quái gỡ, lại sinh ra hiện tượng có những người chỉ làm công việc như công nhân cũng phải xoay sở bằng được lấy bằng đại học, vì chỉ nhờ thế họ mới được tăng lương, -- tuy đó chỉ là đồng lương chết đói ( nhưng lại đã là quá cao so với lao động của họ. VTN)





Sự tầm thường đã đến với lớp người  vốn được coi là cao quý


Người ta đã học như thế nào?


Phần lớn giới trí thức Liên Xô được đào tạo rất hời hợt. Nguyên tắc lớn nhất của giáo dục Xô Viết là tầm thường hóa lao động trí óc, tầm thường hóa quá trình đào tạo những kẻ  muốn phát triển về mặt trí tuệ.


Trong những năm 1920 – 1930 người ta sử dụng rộng rãi phương pháp “học theo đội”, chỉ cần một sinh viên trả lời đúng là cả nhóm được cho qua kỳ kiểm tra. Các chuyên gia được đào tạo theo kiểu đó vốn có trình độ khá thấp ngay trước khi nhập trường, sẽ không thể nào so sánh được với các trí thức trước cách mạng. Trình độ văn hóa chung, nhất là trình độ các môn khoa học nhân văn do hệ thống nhà trường Liên Xô đào tạo không những đơn sơ cổ lỗ mà còn sai lầm có hại, vì đó không phải là kiến thức văn hóa thực thụ, mà đã bị làm méo bởi các nguyên tắc tư tưởng của đảng. Các môn học nhằm tạo ra cơ sở văn hóa tổng quát được dạy rất ít. Các trường đại học khoa học tự nhiên không có môn này, còn trong các trường khoa học xã hội nhân văn thì sinh viên lại được học một số kiến thức giống như thần học.





Đặc trưng của trí thức Nga là tính chất quý phái, tức là sang trọng vượt lên sự tầm thường, kết quả của sự tu dưỡng nhiều đời, có sự tham gia của kiến thức sách vở.


Tất cả những người có học đều có phẩm chất quý tộc ấy. Có quý tộc một đời lại có quý tộc kế thế, nhiều đời – bộ phận nhiều đời này mới thật là tinh hoa ổn định.


Có chân trong giới thượng lưu, người ta dễ dàng giữ được sự độc lập về tinh thần, dễ tự tin, tin vào giá trị thật của mình, và giữ được tính độc lập trước mọi hệ thống quyền lực. Có điều lạ là cả một giáo sư đại học lẫn ông giáo làng dạy tiểu học, họ đều chia sẻ cảm giác tự hào mà trí thức vốn có. Khi người trí thức không có cảm giác về thân phận cao quý của mình thì họ cho phép mình làm bậy.





Ở trên chúng ta đã xét tới việc học ngày nay. Học như thế thì làm sao giới trí thức mới có được cảm giác quý phái mà trí thức cũ đã có.





Thời Xô Viết, người ta chỉ lo tri thức không quên nguồn gốc công nông của mình. Bộ phận trí thức xuất thân lớp trên bị hạ nhục, bị làm phiền: người ta chỉ muốn họ quên họ từ đâu tới.


Nguyên tắc giai cấp, chiếu cố giai cấp, ưu tiên giai cấp, cho phép tình trạng phi chuẩn mực đối với những con người thuộc giai cấp công nông bộc lộ khá lộ liễu và thô bạo.


Đầu cách mạng, số sinh viên xuất thân từ tầng lớp có học, tức là lớp thượng lưu cũ chiếm 2/3.


Tới 1923, số này chỉ còn lại ½


Tới đầu những nằm 30 thì còn lại 20 – 10%. 


Kết quả là ¾ trí thức Xô Viết là hạng F1 mới từ công nông lên. Đó là các trí thức một đời. Người trí thức khộng có khái niệm về sự cao quý của mình, về lòng tự trọng.





Trí thức cấp thấp và quan chức cấp cao. Xu thế bành trướng


Trước 1917, người trí thức giữ chức vụ cao trong bộ máy nhà nước không có bất động sản. Nhưng lương họ cao – cao gấp vài chục lần người lao động chân tay.





Sau cách mạng, thu nhập trí thức chỉ nhỉnh hơn chút ít so với thu nhập công nhân. Nếu thêm việc các quỹ gọi là “phúc lợi xã hội” cũng được tái phân phối theo hướng có lợi cho công nhân thì cho đến năm 1980, mức sống của tầng lớp trí thức chỉ bằng một nửa hoặc 40% mức sống của công nhân.





Ví dụ giáo viên thì lớp giáo viên tiểu học còn đỡ; lớp dạy đại học chỉ được nhận 20% mức lương trước cách mạng. Từ đó nảy sinh trong tầng lớp trí thức xu thế quan liêu hóa vì chỉ trở thành quan chức trong giới của mình thì mới có thể có mức thu nhập cao.






Sự xây dựng tri thức trong xã hội Xô Viết tiến hành theo nguyên tắc phản chọn lọc. Nó tiêu diệt những người ưu tú, lại cất nhắc những kẻ tồi tệ. Quá trình chọn lựa kéo dài hơn một nửa thế kỉ, những kẻ xấu xa nhất được nâng đỡ, việc này đã dẫn đến kết quả là, không những nhóm lãnh đạo chính trị chóp bu, mà cả những nấc thang thấp hơn của kim tự tháp quyền lực, đều nhung nhúc những kẻ không ra gì.


Đấy là lý do vì sao chế độ Xô Viết về nguyên tắc là không thể thay đổi được, dù lãnh đạo cao nhất bị thay đổi.


Nếu tầng lớp tinh hoa trong lĩnh vực quản lí trước cách mạng bao gồm những người được giáo dục và có học vấn tốt nhất trong thời đại của mình, và tầng lớp tinh hoa chính trị trong các nước châu Âu ngày nay cũng bao gồm chủ yếu là những người đã tốt nghiệp các trường đại học uy tín nhất, thì ở Liên Xô, bức tranh hoàn toàn ngược lại.


Tầng lớp lãnh đạo chính trị cao nhất gần như là những người có trình độ học vấn văn hóa kém nhất trong số những người lao động trí óc. 




Mặc dù trong thời Xô Viết cũng có một số trường đại học có chất lượng cao nhưng hiếm khi những người tốt nghiệp các trường đại học như thế được gia nhập vào bộ phận tinh hoa trong lĩnh vực quản lí. Tầng lớp quản lí thường chỉ bao gồm những người tốt nghiệp các trường đại học tỉnh lẻ cộng với các trường Đảng cao cấp, nghĩa là những trường đại học có trình độ văn hóa thấp nhất nếu không nói là giả đại học.


Trình độ học vấn kém cỏi của giới quan chức dẫn đến sự đối lập quan chức – trí thức. Bộ máy quản lí thời Khruchev là một ví dụ tiêu biểu của chất lượng giáo dục khi họ tham gia vào việc quản lí.


Đây là giai đoạn mà sự tầm thường hóa giáo dục đại học đạt đến đỉnh điểm. Lạm phát trí thức  bùng nổ với nghĩa hàng chục trường đại học không đủ điều kiện đã được thành lập.


Đây cũng chính là giai đoạn hình thành cơ sở cho việc sản xuất thừa các chuyên gia.


 Kết quả và quá trình bành trướng số người lao động trí óc đã dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng uy tín của lao động trí óc. Tương lai của khoa học cũng gánh chịu những hậu quả nặng nề. Biên chế của các viện nghiên cứu khoa học tăng theo cấp số nhân. 


Kể cả những kẻ tầm thường vốn không thể có hi vọng và bản thân không hề nghĩ việc nghiên cứu khoa học, cũng trở thành các “nhà khoa học”.


 Đến những năm 80 họ đã trở thành gánh nặng, khiến cho những dự định cải cách chỉ trở thành ảo tưởng. Hơn thế nữa, lúc đó do quá trình thay đổi thế hệ, lớp trẻ hãnh tiến này đã chiếm giữ hầu hết các vị trí lãnh đạo trong khoa học và thực hiện chính sách trí thức dội từ trên xuống theo đúng bản chất của mình.





Kết cục khó tránh


Chế độ Xô Viết, sau hàng chục năm phấn đấu đã gần đạt được thành công trong việc loại bỏ tầng lớp trí thức như một hiện tượng xã hội đặc thù, như một cơ cấu tương đối hoàn chỉnh; hoàn toàn loại bỏ được đặc trưng mang tính thượng lưu của nó; và xóa bỏ được sự khác biệt về trình độ học vấn và vốn văn hóa giữa nó với đám quần chúng được gọi là nhân dân.


Có những khó khăn nhất định ngăn cản không cho tầng lớp có học hiện nay nhận thức được sự bất toàn về mặt xã hội của mình. Cơ sở tư tưởng của chế độ toàn trị cộng sản là sự sùng bái “con người bình thường”. Sau hàng chục năm bị thôi miên rằng chân tay quan trọng hơn đầu óc và đầu óc là để phục vụ cho chân tay, thì đầu óc – tức là lớp trí thức -- đã quen dần với định đề phản tự nhiên đó. Họ dần đánh mất phần lớn khả năng tư duy của mình và cho đến nay vẫn chưa có đủ dũng khí vươn lên để khẳng định vai trò của mình trong xã hội.





Những thành quả sáng chói của nền khoa học và văn hóa Nga thế kỉ XIX được tạo nên bởi những con người sinh ra trên những nguyên tắc có nguồn gốc từ sự phát triển xã hội ba thế kỉ trước.


Còn việc cố tình hạ thấp vai trò của trí thức và tiêu diệt trên thực tế tầng lớp này sau 1917 lại chỉ bắt nguồn từ sự trì trệ trong vận động lịch sử của những thập kỉ gần đây.


Kết quả là chúng ta có một tầng lớp có học nhưng không có khả năng thực hiện các thiên chức của nó.





Cuối cùng trong xã hội Xô Viết, chỉ có một chút ngoại lệ là các nhà trí thức hàn lâm và các nhà kĩ thuật quân sự, vốn được đào tạo như một khu vực tách rời khỏi xã hội. Sau năm 1991, chính bộ phận này khi ra nước ngoài đã hòa nhập được với giới khoa học của các nước phương Tây.





Muốn thay đổi được thực trạng nói trên thì chính nhà nước phải có một quan niệm khác đi về giới tri thức. Phải công nhận rằng trong xã hội Xô Viết đã hình thành một lớp kỹ giả ngu dốt – vô năng. Đoạn tuyệt với họ rất khó. Người trí thức chân chính sau 1991 vẫn không thể lọt vào cả giới chính trị lẫn giới kinh doanh – môi trường kinh doanh vốn đầy tính chất mafia của Nga.




Tầng lớp tinh hoa trí thức như một giai tầng xã hội chỉ có thể được hình thành nhờ những cố gắng mang tính chủ động của nhà nước. Phải bắt đầu bằng sự phủ nhận rằng chúng ta đã làm sai, đào tạo sai thì sau đó mới có thể bắt tay làm lại mọi việc. Không có sự cố gắng như thế, đất nước -- trong trường hợp tốt nhất -- chỉ biến thành người cung cấp chuyên gia cho các nước khác mà thôi. 

Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2014

Ghi chép trong tuần ( 13-19/10/2014)

14-10

MỘT BÀI THƠ CHÍN ĐẸP

CỦA MỘT GIAI ĐOẠN VĂN HỌC PHỤC HƯNG

Nửa đầu tháng mười tôi ở Hà Nội. Thường hay nhớ lại một bài thơ của Tế Hanh mà nay đã quên cả tên:

Em lại về trong ngày hội lớn

Trong khi mùa lại đón thu sang

Thủy tinh trong suốt từng không khí

Rót mật bầy ong tải nắng vàng





Trời xanh êm soi nước xanh êm

Mây như lụa mỏng gió tơ mềm

Tiếng ai thầm gọi trong trăng sáng

Một ánh mong chờ gợn mắt em



--Anh lớn ơi hồi chưa Cách mạng

Mùa thu có đẹp thế này không?

-- Thu nay đẹp lắm ơi em nhỏ

Đời cũng như em má ửng hồng




Trong đời sống văn học Hà Nội 1945-75, giai đoạn 1958- 1964 là một giai đoạn có thể gọi là chín, thuần thục. Sau những bước trồi sụt từ 1957 về trước, nay đến lúc phục hưng. Phục hưng với nghĩa, về mức độ hoàn thiện, gợi cho người ta nhớ tới thời kỳ tiền chiến.

Về sau, mỗi khi cần nghĩ tới những điều tốt đẹp để động viên mình sống và viết, tôi thường nhớ lại những sáng tác hồi đó, cả thơ lẫn nhạc. Ví dụ bài hát như Bài ca hy vọng của Văn Ký. Ví dụ như bài thơ trên của Tế Hanh. Mỗi lần đọc lại, tôi cảm thấy như được sống trong một khung cảnh thanh sạch,cho phép mình một thứ mơ mộng phải chăng – tất cả cái ngây thơ hồi ấy sau bị chiến tranh tàn phá nên coi như mãi mãi phôi pha không bao giờ trở lại.

Tôi đã từng nói cái nhận xét về chất phục hưng của giai đoạn 58-64 theo nghĩa trên với Tế Hanh lúc ông còn khỏe. Là người đã sống những năm tháng huy hoàng của tiền chiến, Tế Hanh bảo là cũng thấy như tôi.





15-10

DANH NGÔN HIỆN ĐẠI

Từ điển danh ngôn thế giới do Lưu Văn Hy biên soạn bản của nhà Tổng hợp TP HCM 2006 có một ưu điểm, so với một số cuốn khác tôi đã đọc -- tác giả chọn được ra nhiều câu thú vị có liên quan đến đời sống chính trị hiện đại.

Một câu của nhà văn Mỹ Henry Brooks Adams (1838 – 1918)

Làm chính trị, trên thực tế, bất luận trong lĩnh vực nào, luôn luôn là việc tổ chức một cách có hệ thống lòng căm thù.(Tr 12)



Câu của tiểu thuyết gia Anh Elizabeth Gaskell (1810 -1865)

Nội dung cơ bản của loại chủ nghĩa ái quốc ấy là ghét bỏ mọi quốc gia khác (tr 129)



Câu sau đây liên quan tới Henry Reed nhà thơ Anh (1914-1986). Nghiên cứu về hồi ký của một viên tướng Mỹ thời kỳ nội chiến Nam Bắc, ông nhắc lại một câu của viên tướng đó:

Trong một cuộc nội chiến, một viên tướng cầm quân phải biết – bằng vào bản năng hơn là thực hành – phải biết chính xác khi nào ngả sang phe bên kia. (Tr 283)

Theo tôi hiểu ở đây người ta muốn nói, trong một cuộc nội chiến, không phải phe này hay phe kia chiến thắng mà hãy  nghĩ và hành động sao để cả dân tộc chiến thắng, nghĩa là tránh được chiến tranh, vãn hồi hòa bình, ở đó người ta bàn bạc với nhau về vận mệnh Tổ quốc.

Lòng trung thành với quốc gia phải đặt cao hơn lòng trung thành với phe phái mà mỗi người là một thành viên.



Nhìn vào các cuốn từ điển danh ngôn, phần bàn về nội dung chính trị, tôi nhận thấy không có tác giả người Việt. Ở cuốn này cũng vậy. Nhưng rồi tôi tự hỏi, nếu mình biên soạn mình biết chọn ra câu danh ngôn nào của Việt Nam bây giờ. Không có! Người mình không có những nhà chính trị có tư tưởng mà khi phát biểu ra, thiên hạ phải chịu rằng những tư tưởng này cũng đúng với trường hợp xứ họ.





16-10



KHI DỐI TRÁ, CON NGƯỜI ĐÃ BIẾN DẠNG

Ngoài việc viết báo, Trần Đĩnh còn là một dịch giả. Một trong những bản dịch tôi đã đọc của ông là cuốn Trương Nhung -- "Những con chim hồng hộc", nxb Phụ nữ, 2008



Đây là đoạn viết về Trương Nhung trong Wikipedia

Trương Nhung (Trung văn giản thể: 张戎; Trung văn phồn thể: 張戎; bính âm: Zhāng Róng; Wade–Giles: Chang Jung, Phát âm tiếng Trung: [tʂɑ́ŋ ɻʊ̌ŋ], tiếng Anh: Jung Chang, sinh 25 tháng 3, 1952) là một nhà văn quốc tịch Anh sinh tại Trung Quốc và hiện đang sống ở Luân Đôn. Bà nổi tiếng với cuốn truyện viết về gia đình mình

"Wild Swans" đã bán trên 10 triệu bản khắp thế giới nhưng bị cấm tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Cuốn tiểu sử Mao Trạch Đông dày 832 trang, "Mao: The Unknown Story", của bà viết cùng chồng là sử gia Anh Jon Halliday, đã được xuất bản tại Anh tháng 6 năm 2005.

Trương Nhung sinh ra tại Nghi Tân, Tứ Xuyên ngày 25 tháng 3 năm 1952. Cha mẹ bà là viên chức Đảng Cộng sản Trung Quốc và cha của bà là người đam mê văn chương. Từ khi còn nhỏ bà đã có tình yêu với việc đọc và viết, sáng tác thơ văn.

Là cán bộ Đảng, gia đình bà có cuộc sống tương đối tốt. Cha mẹ bà lao động cần cù và cha bà là một tuyên truyền viên có uy tín tại địa phương. Ông là "cán bộ cấp 10", có nghĩa rằng ông là một trong 20.000 cán bộ quan trọng bậc nhất của Trung Quốc. Đảng Cộng sản cấp cho gia đình bà một chỗ ở trong khu nhà có tường bao và được canh gác, một người giúp việc, một tài xế, cùng với một vú nuôi cho năm anh chị em của bà. Những đặc quyền này là phi thường tại Trung Quốc những năm 1950 còn rất nghèo khó.

Nhưng gia đình bà cũng đã tan nát vì cách mạng văn hóa, chỉ may mắn sống sót và có dịp làm ăn trở lại khi ra định cư ở nước ngoài




"Mao: The Unknown Story" từng được nhà báo Bùi Tín làm bản tóm tắt in nhiều kỳ trên mạng.

"Wild Swans" mà Trần Đĩnh dịch là "Những con chim hồng hộc", có khi còn được dịch là "Những con thiên nga dại".



Xin chép lại một đoạn Trương Nhung kể lại đời sống tinh thần của con người thời công xã nhân dân.

Mùa hè ấy, Trung quốc được gom lại thành những đơn vị mới, mỗi công xã có từ 2.000 đến 20.000 hộ. Một trong những nơi đi đầu của phong trào này là Tú Thủy ở tỉnh Hà Bắc và nó liền được Mao ca ngợi đánh bóng.

Để tỏ ra xứng đáng với sự quan tâm của Mao, đảng bộ địa phương tuyên bố sản lượng hạt cốc của họ tăng hơn trước mười lần.

Phần lớn dân chúng bị cuốn vào cái thế giới viển vông điên rồ này.

Nhiều người kể cả những nhà nông học và lãnh đạo cao cấp của Đảng nói họ đã chứng kiến các phép lạ này.

Những ai không ứng hợp kịp với các tuyên bố hoang đường của người khác thì bắt đầu nghi ngờ chính bản thân mình và tự phê bình là bảo thủ.

Dưới một nền độc tài như chế độ của Mao, nơi người ta giấu và chế biến thông tin, rất khó tìm thấy một người bình thường mà còn tin vào kinh nghiệm hay kiến thức của chính mình.

Lờ hiện thực đi rồi đơn giản đặt niềm tin vào Mao thì dễ sống. Ngừng lại để suy nghĩ hay ngờ vực thì có nghĩa là chuốc rắc rối vào người




Sau khi kể lại một cuộc đấu tố ngắn gọn trong thời kỳ này, tác giả bình luận tiếp:

Người dân đã học được cách bất chấp lý tính mà đi đóng kịch mần tuồng.

Ngôn ngữ của họ dần thoát ly hiện thực trách nhiệm và ý nghĩ thực của con người. Cả nước trượt vào lối nói nước đôi.

Người ta nói dối nói dá dẻo quẹo bởi vì chữ đã mất nghĩa và chẳng còn có ai coi lời người khác nói là nghiêm chỉnh nữa.

Sau đó bệnh dối trá lại được củng cố bởi quy chế quân ngũ hóa xã hội.

Khi cho tổ chức ra những công xã đầu tiên, Mao nói cái lợi chính của nó là giúp cho việc kiểm soát dân chúng dễ dàng, vì từ nay nông dân thôi sống riêng lẻ mà được đặt vào một hệ thống tổ chức chặt đến không ai cựa nổi.

Một cách quân ngũ hóa nữa là đặt ra các nhà ăn tập thể.




Trích từ "Những con chim hồng hộc"

bản dịch Trần Đĩnh,Tr203- 205





17/10

NHỮNG TAI HẠI DO KHÔNG NGHIÊN CỨU

VÀ GIẢNG DẠY NGHIÊM TÚC TIẾNG HÁN VIỆT

Trong buổi cà phê ở chỗ anh Dương Thụ thứ bảy 18-11 này, bọn tôi sẽ được nghe ông Hoàng Dũng nói về chủ đề:

"Ứng xử của tiếng Hán Việt trong tiếng Việt hiện đại"



Đọc lời dẫn thấy diễn giả viết:

Tiếng Hán Việt rất quan trọng, không chỉ vì tiếng Việt đã du nhập một số lượng lớn từ Hán Việt, mà còn vì chúng có vai trò đặc biệt, không thể thay thế, trong việc cấu tạo các thuật ngữ khoa học và các diễn ngôn quan phương. Tiếng Hán Việt hoạt động theo quy tắc nào? Đó có phải là biệt lệ so với các ngôn ngữ Sino-xenic (các ngôn ngữ có số lượng lớn từ vay mượn tiếng Hán như tiếng Nhật, tiếng Hàn) và rộng ra là sự vay mượn phổ quát xảy ra giữa các ngôn ngữ có quan hệ tiếp xúc hay không? Thái độ đúng đắn là đề cao khuynh hướng "giữ gìn sự trong sáng" (purism) hay tôn trọng hiện thực?

Đọc lời dẫn giải ấy, tôi hiểu đây là buổi nói về vai trò, về tầm hoạt động và ý nghĩa của tiếng Hán Việt.



Tôi đã viết ngay trong email cho người bạn trẻ Linh Thoại “tiếng Hán Việt quan trọng vì nó liên quan tới sự phát triển trí tuệ của cộng đồng và là phương tiện băt buộc để người Việt hội nhập với quốc tế. Điều đó đúng trong lịch sử lai càng đúng với xã hội hôm nay”



Trong lúc chuẩn bị để viết một bài kỹ lưỡng hơn, tôi tìm thấy đoạn ghi chép cũ ghi từ mấy năm trước:

Trong cuốn sách "Việt Nam và Pháp, bạn hay thù" tác giả Philippe Devillers, nxb Tổng hợp TPHCM , 2006 các trang 288-290 - có một đoạn kể lại những tính toán của người Pháp sau khi chiếm được các tỉnh miền Tây, cuối thế kỷ XIX , muốn xác định nền giáo dục ở các xứ bảo hộ để phục vụ cho nền cai trị của họ ra sao.

Lúc bấy giờ đô đốc Bonard còn phân vân không biết nên dạy cho người bản xứ là chữ Hán hay chữ Quốc ngữ. Nhưng các cha cố thì kiên quyết là dạy ngay chữ Quốc ngữ vì nó rất cần cho việc giảng đạo của họ mà lại học được nhanh.

Ở chỗ này, tôi thấy Bonard là một người rất sâu sắc. Ông ta bảo rằng đúng là học chữ Quốc ngữ thì nhanh biết chữ thật nhưng chỉ tạo ra những con vẹt; có điều do nhu cầu của việc bình định, ông ta vẫn đồng ý với việc dạy chữ Quốc ngữ.

Sau này, tôi có đọc được trong một cuốn sách của Nguyễn Văn Trung về chữ quốc ngữ, cuốn này vì in ra từ cuối 1974 đầu 1975 nên ít người biết. Ở đó Nguyễn Văn Trung có dẫn lại ý của một người Pháp nói rằng là từ sau khi việc dạy chữ Quốc ngữ được phổ biến thì mặt bằng đạo đức xã hội của các tỉnh miền Tây thời đó thấp hẳn xuống
.



Cái lạ ở đây là sự xuất hiện của nhóm từ "mặt bằng đạo đức".

Như vậy, ngôn ngữ không phải là một công cụ vô can? Ngôn ngữ có liên quan tới sự định hình đời sống tinh thần và trình độ làm người của các dân tôc?




Hôm nay giở lại cuốn sách của Philippe Devillers, thấy ở tr 289 có chép lại những lời giảng giải của một người Pháp là Luro về sự khác nhau giữa việc học chữ Hán và việc học chữ quốc ngữ:

Biết đọc và biết viết, trong tiếng Trung Hoa, có nghĩa là đã để vài năm ở tuổi thanh niên của mình dừng lại trên những cuốn sách đạo lý, lịch sử, đã nghiên cứu và thấu hiểu các cuốn sách đó. Như vậy là đã nhận được cả sự học vấn và sự giáo dục(…). Còn với hệ thống của chúng ta [với tiếng quốc ngữ mà chúng ta dạy] đứa trẻ ra khỏi trường mà chẳng có chút kiến thức về đạo lý tức là chẳng được giáo dục gì cả.



Tôi rất thích cái ý tưởng này bởi lẽ, ngược với ý kiến nhiều người quá tự hào về chữ quốc ngữ và việc dạy chữ quốc ngữ từ 1945 tới nay, tôi thấy việc bỏ qua không dạy tiếng Hán Việt – dạy một cách khoa học, cẩn trọng nghiêm túc – đã là cản trở cho sự phát triển của xã hội VN, nhất là khi ta bước sang thời hậu chiến.



19/10

Một câu ghi được từ cuốn Người Nhật của Pronikov & Ladanov, Nxb Tổng hợp TP HCM, tr 264



Kẻ nào đã dám cắn vào tay người đã cho hắn ăn, kẻ đó tất sẽ liếm ngay đế giày kẻ vừa chà đạp hắn.







Chủ Nhật, 12 tháng 10, 2014

Quản lý Hà Nội sau 10-1954 -- một cách hiểu về dân chủ quá dung tục


Trong các nhận xét của  Nguyễn Huy Tưởng mà tôi đã nêu ở bài trước Những thay đổi  đã đến với  Hà Nội từ sau 1954:Tính nghiệp dư trong quản
, thì cái nhận xét
có liên quan đến nhân sự “con sen trở thành đại biểu khu phố”có lẽ là quan trọng
nhất.


Nó đề cập tới nhân tố hàng đầu khiến cho Hà Nội từ một thành phố thanh lịch
văn minh trở thành một thành phố nham nhở nhếch nhác, một thành phố tầm thường và
đi đầu trong việc học đòi ăn chơi như chúng tôi đã nói.


    Người ta
có thể bảo sự tức giận của Nguyễn Huy Tưởng là hoàn toàn có lý nếu đứng trên
bình diện cảm tính – nghĩa là một người có lương tri bình thường cũng dễ cảm thấy.


     Nhưng điều
này cũng đúng nếu dùng đầu óc để suy đoán và truy tìm lại sách vở kim cổ để có
chỗ dựa.




    Những cảnh báo đã có từ …  triết học Hy lạp cổ đại


     Hai chữ con sen mà Nguyễn Huy Tưởng đã dùng có
thể được hiểu là những người không có trình độ hiểu biết, những người mà ở Hà Nội
sau 1954 được gọi là dân nghèo thành thị, hoặc một chữ sang hơn, nhân dân lao động.


    Trong ý tưởng của tác giả Sống mãi với Thủ đô, lớp người này mãi mãi chỉ là người cần được hướng
dẫn giáo dục lãnh đạo; nếu được sử dụng vào việc quản lý họ sẽ trở thành một thứ
nghiệp dư xoàng xĩnh.


    Nhưng việc đề cao nhân dân lao động, đưa họ
vào hàng ngũ những người cầm quyền , thật ra lại là một nguyên tắc bao trùm của
xã hội hôm nay.


   Ý chúng tôi
muốn nói tới thể chế dân chủ mà chúng ta tự hào.


    Trong cái vẻ cụ thể của nội dung khái niệm chứ
không phải chữ nghĩa bề ngoài, nguyên tắc dân chủ ở ta bao gồm cả hai khía cạnh:


   Một là tổ chức những cuộc bầu cứ phổ
thông đầu phiếu một cách hình thức.


   Và hai là đưa những người thuộc về nhân dân
lao động vào bộ máy quản lý.


 


   Tôi thuộc
vào thế hệ học sinh trung học ở Hà Nội sau 1954, nên cố nhiên không biết triết
lý Hy La là gì. Thỉnh thoảng có thấy nói lướt qua thì nghe như ở đó toàn bàn về
những điều trừu tượng duy tâm duy vật chả có gì thiết thực.


     Lớn lên
đi làm báo làm xuất bản, cố nhiên không bao giờ có dịp quay về, và giờ đây, lại
càng không đủ trình độ để đọc vào nguyên bản.


     Chỉ còn
có cách đọc qua trung gian.


     May mà loại
sách này ở miền Nam trước kia không thiếu.


     Điều thú
vị tôi phát hiện ra là mấy ông như Platon lại nói nhiều ý dính ngay đến điều
chúng ta đang quan tâm.


     Trong cuốn
Câu chuyện triết học của Will Durant,
bản dịch của Trí Hải và Bửu Đích, in ra, tức tái bản, ở nxb Văn hóa thông tin 2008, ở các trang 29-30, người ta có thể đọc được
những lời dẫn giải sau:


 Về sự tham gia của đám đông vào việc quản
lý xã hội


  
Khi chính thể dân chủ đến, kẻ nghèo chiến thắng đối thủ của họ, tàn sát
một số, trục xuất một số, và cho tất cả mọi người tự do bình đẳng.


   
Nhưng chính thể dân chủ tự phá hủy vì [ bề ngoài]  quá dân chủ.


   
Họ -- đây muốn chỉ những người đề xuất chính thể dân chủ -- muốn rằng tất
cả mọi người đều có quyền tham gia chính phủ và ấn định đường lối quốc gia.


   
 Sau khi bảo rằng mới xem qua thì việc
bầu cử phổ thông – tức là cho tất cả mọi người tham gia vào việc lựa chọn các
thành viên của bộ máy quyền lực --, là một lý tưởng quá ư tốt đẹp, W. Durant
cài ngay vào đấy cái ý của Platon cảnh báo rằng thực ra việc đó vô cùng nguy hiểm.
Vì dân chúng không được giáo dục để có thể 
lựa chọn người tài giỏi ra cầm quyền và tìm ra đường lối thích hợp nhất.


    
Dân chúng không có kiến thức, họ
chỉ lặp lại những điều nhà cầm quyền nói với họ
”.


     
 Phát triển ý của Platon, Durant
cũng đi guốc vào bụng các nhà chính trị khi chỉ rõ cái chiến thuật xoàng xĩnh: muốn
ủng hộ hoặc đả phá một học thuyết, chỉ cần soạn những vở kịch [hiểu theo nghĩa
rộng những tác phẩm văn nghệ] trong đó những học thuyết kia được đem ra chỉ
trích hoặc cổ võ, rồi trình bày  trước
công chúng.


     
Thế là tha hồ dắt mũi họ.


….


    
Tổng kết về chuyện bầu bán,  W.
Durant viết:


    
Dân chúng rất ưa những lời nịnh hót; những kẻ khôn ngoan và vô liêm sỉ,
tự gán cho mình cái nhãn hiệu bảo vệ dân chúng [nói lên tiếng nói dân chúng] thường
được mở ra cả cơ hội lớn để nắm quyền lực tối cao.





   
Chính  Platon đã tỏ ra kinh ngạc về
sự điên rồ khi giao cho  quần chúng [đang còn là đám đông những kẻ chưa trưởng thành] trọng
trách chọn người cầm giềng mối quốc gia.








Về
sự có mặt của một vài đại biểu đám đông trong bộ máy quyền lực
     


   
Đây mới là chỗ liên quan tới những con sen của Nguyễn Huy Tưởng.


   Theo W. Durant, Platon phàn nàn rằng đối với một
việc nhỏ như việc đóng giày, may quần áo, người ta còn phải lựa chọn những người
thợ chuyên môn, tại sao trong lĩnh vực chính trị là một lĩnh vực có tầm ảnh hưởng
rộng lớn, người ta có thể tin rằng bất cứ kẻ nào chiếm được nhiều phiếu [hậu quả
của việc được bảo kê hoặc giỏi tiếp thị trước công chúng] đều biết cách trị nước
an dân.


   
Khi chúng ta bị bệnh, chúng ta không kiếm những thày thuốc đẹp trai hoặc
những thày thuốc dẻo mồm khoe khoang mà mời bằng được những y sĩ lành nghề  đã trải qua nhiều năm đèn sách và học tập.


    
Thế thì tại sao khi quốc gia lâm nguy chúng ta không tìm tới  những người khôn ngoan nhất đức hạnh nhất?





  


   
Rút lại, theo W.Durant, ý của Platon là:


   
Để cho dân chúng cầm quyền không khác gì để cho con thuyền quốc gia lướt
trong vùng bão tố, miệng lưỡi bọn chính trị gia càng làm mặt nước nổi sóng và
có thể lật ngược cả hướng đi của con thuyền.


   
Không chóng thì chầy, một chính thể như vậy sẽ rơi vào con đường độc
tài.


   


  Tìm ra mọi phương pháp để loại bỏ bọn bất
tài và bịp bợm ra khỏi bộ máy quyền lực. 


   Chọn lựa cho được những kẻ tài cao đức trọng.


  
Đó là vấn đề chính của triết lý chính trị.





Trở
lại với chuyện Hà Nội





      Dưới dạng
đối thoại, chúng ta sẽ bàn tiếp về câu chuyện “những con sen trở thành đại biểu
khu phố“, ở khía cạnh sự có mặt của nhân dân lao động trong việc quản lý các
thành phố hiện đại.


      --Nguyễn
Huy Tưởng chỉ nói về một hai trường hợp cá biệt. Anh đẩy lên quá đáng và đưa ra
những khái quát non.


     -- Không
đúng. Sau 30-4, vừa vào Sài Gòn mấy ngày, Nguyễn  Khải đã kể với tôi một chuyện đang bàn ở gia
đình ông. Bà chị họ của ông than phiền nhiều lần rằng giải phóng sao mà kỳ quá,
sao mấy ông mới vào lại đưa con bé giúp việc nhà bà ra làm tổ trưởng dân phố,
nó có biết gì đâu.… 





-- Sau đó, họ đã đi học, đã có bằng cấp.


-- Đi học Bổ
túc công nông,
năm lên ba lớp chứ gì? Rồi thời nay là lấy bằng tiến sĩ bằng
cách cho người đi học thuê chứ gì?





-- Thế tức là anh cho rằng nhân dân lao động không
thể tham gia vào việc quản lý thành phố? Cũng như Hà Nội thứ thiệt phải là người
đã sinh sống ở đây nhiều đời chứ không thể là dân các tỉnh đổ về?


-- Không đúng. Bất cứ ai nghiên cứu lịch sử Hà Nội
cũng biết rằng ngày trước 1945, Hà Nội luôn luôn được bổ sung bằng dân nhập cư.
Nhưng đó là những người ưu tú của các địa phương, những người thợ giỏi, những
người buôn bán giỏi, những học trò xuất sắc từng đỗ đạt có thứ hạng cao trong
các cuộc thi nghiêm chỉnh.


     Thời xưa ấy,
cái loại người tay nghề loàng xoàng, những kẻ lười biếng và dốt nát không bao
giờ tìm được chỗ đứng ở Hà Nội.


     Cũng
tương tự như vậy, cách tổ chức bộ máy quan lại của Trung Hoa với Việt Nam xưa
là sử dụng những cuộc thi để tuyển chọn nhân tài.


     Xưa còn có lối cấm đoán không cho con nhà hạ
lưu đi thi.


    Sau cái lệ
ấy đã bỏ.


    Người ta
bình đẳng với nhau trước các kỳ thi, và khi đã qua khảo hạch, tức là người ta
đã trở thành kẻ trí thức, sống theo lễ nghĩa biết ăn biết ở. Người ta không còn
là dân “chân đất mắt toét” “ ba xoa hai đập”, giống như số đông những anh cốt
cán trong cải cách, lấy việc hận thù ghen ghét những người ưu tú, tố điêu và nịnh
bợ làm đường tiến thân.


   Đấy là nói
chung về chỗ khác nhau giữa việc tuyển lựa quan chức thời nay và thời xưa, bao
gồm cả thời phong kiến lẫn thời Pháp thuộc.




   Riêng với
quan chức Hà Nội, thì ngay từ thời xưa, người ta phải có hiểu biết thế nào là
đô thị, và người đô thị, vai trò của các thành thị trong sự phát triển kinh tế
và văn hóa của quốc gia xứ sở. Chỉ đến thời đại ta mới có những người làm dân thường ở đô  thị không xong, đã nhẩy lên làm quan chức, hành hạ người khác.