Thứ Bảy, 29 tháng 11, 2014

Mấy điều vân vi khi nhớ lại một lời ai điếu vay mượn

Hồi tướng Giáp qua đời, giáo sư Vũ Khiêu có
mấy câu khóc thảm thiết bằng văn chương, khiến nhiều người cảm động, trong đó có
đoạn:

“Sinh ra tôi là cha mẹ, hiểu biết tôi lại là anh. Tấm lòng tri ngộ ấy tôi biết
lấy gì báo đáp? Mấy hôm nay tôi ngồi khóc viết mấy lời trên, từ đỉnh trời cao
anh có thấu hiểu lòng tôi?”



Không hiểu sao lúc ấy tôi đọc đã ngờ ngợ, hình như cách nói này
mình đã được nghe ở đâu đó.


 Cho tới mấy hôm đi lục sách báo cũ ở
Sài Gòn, thấy có cuốn Thành ngữ điển tích của Diên Hương, nhxb Tổng Hợp Đồng
Tháp 1992, trong đó ở mục TRI KỶ có ghi lại mối tình bạn giữa hai nhân vật thời
Đông Chu bên Tầu là Bão Thúc Nha và Quản Trọng.


Bão Thúc Nha là người từ nhỏ đã buôn chung
với Quản Trọng sau lại là người giúp Quản Trọng rất nhiều trên đường công danh.


Tổng kết lại, Quản Trọng bảo “Cho nên ta
biết rằng sinh ra ta là cha mẹ ta, còn biết ta là Bão Tử mà thôi”.


Lúc lên mạng, ở mục Quản Trọng và Bão Thúc
Nha, thấy các bài đều có ghi lại mẩu chuyện trên và cái câu nói có cánh dẫn
trên. Đây là một địa chỉ:





                                                     Nhìn
sự việc dưới góc độ lịch sử văn hóa

Xin phép được bình luận thêm

1/ Đầu tiên  tôi chỉ nghĩ cụ giáo sư khinh bọn hậu sinh quá. Sau nghĩ thế là cụ khinh thường cả cái dư luận ở xứ mình, nên cũng không lấy gì làm buồn nữa.

Rồi nghĩ tiếp “Tài liệu trên mạng còn ghi Vũ Khiêu sinh
1916. Ở tuổi ấy, người ta đã già, dễ quên, dễ lẫn”.
 
thể nêu một giả thiết như thế về lời ai điếu ở trên chăng?



Cũng đã tuổi ngoại bẩy mươi, tôi muốn chúng ta 
cùng có một cái nhìn  thông cảm như
vậy.




Còn như, nếu xét về lý, trong trường hợp này, phải
quy trách nhiệm của  cả giới làm văn làm
báo nước ta. Lẽ nào trong việc công bố một ý tưởng như trên vừa dẫn các nhà
biên tập ở đài ở báo đều vô can?


Rộng hơn trường hợp Vũ Khiêu, cần phải nghĩ
chung về các bậc thầy văn hóa VN hôm nay. Cả họ nữa, họ cũng phải chịu trách
nhiệm về những dốt nát và vay mượn của các thế hệ tiếp theo.






Từ xưa đã thế, nhiều người Trung quốc, ở cả
đại lục lẫn hải ngoại, rất giỏi tiếng Việt và thường xuyên theo dõi sinh hoạt
tinh thần ở VN. Anh Tạ Ngọc Liễn ở Viện Sử có lần nói với tôi là riêng ở Đại
học Trịnh Châu tỉnh Hà Nam (một tỉnh có các thành phố kinh đô cổ Lạc Dương và
Khai Phong), đã có khoảng 500 nhà nghiên cứu Trung quốc chuyên về Việt Nam học.

Đọc những lời ai điếu loại như của Vũ Khiêu,
họ sẽ nghĩ về giới trí thức VN, và cả văn hóa VN xưa và nay ra sao? Liệu chúng
ta có đủ sức bác bỏ những kết luận của họ không?






2/
Cũng theo hướng suy diễn rộng ra một chút, tôi nhớ tới hai trường hợp. 


Một là
câu thơ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa của
Cao Bá Quát.


 Và hai là  bài ca dao Cày đồng đang buổi ban trưa


                                Mồ hôi thánh
thót như mưa ruộng cày 


                                Ai ơi bưng bát cơm đầy/


                                Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn
phần.


Khi có người tố lên rằng
thật ra đó là những câu thơ Trung Hoa cổ được vay mượn nguyên văn hoặc được dịch
lại, thì nhiều người lý sự thế này:


-- cỡ như Cao Bá Quát
không thể có chuyện vay mượn được.


-- nông thôn Việt Nam
là thành lũy của tinh thần phi Hán hóa ở người Việt, không thể có chuyện ca dao
về làm ruộng lại dịch từ Trung quốc được.


May quá có thêm trường
hợp Vũ Khiêu. Đến trong thời đại kỹ thuật tra cứu phát triển như hiện nay mà
còn có chuyện nhầm lẫn, thì nhìn vào người xưa, có thấy điều tương tự, cũng
không phải lạ.





Anh Dương Trung Quốc có
lần bảo tôi, thời phong kiến, có
hai thứ hàng các vị quan chức( = các trí thức lớn của đất nước) đi sứ được mang
về là sách và thuốc.


 Nhưng nhớ có lần đọc Đại
Việt sử ký toàn thư
, thấy có chuyện có mấy cuốn sách sứ Tầu mang biếu, vua
cho các quan mượn xem, có nhiều ông giữ lại luôn làm của riêng. Chắc về làm tài
liệu để chọe nhau.


(Lúc này tôi không tra cứu kịp để ghi lại số trang Đại Việt sử ký toàn thư có chép chi tiết
trên, xin hẹn dịp khác).





Trong văn học hiện đại,
nhà văn Nguyễn Đình Thi của chúng tôi nổi tiếng là người thông thạo văn hóa thế
giới, mỗi lần nghĩ tới ông tôi cứ thấy xấu hổ cho các thế hệ về sau.


 Nhưng trong
một lần hơi say say, nhà văn Kim Lân nói với tôi về ông Thi:


-- Ừ thì người anh em ăn
nói viết lách Tây cũng phải chịu thật. Nhưng tôi ngờ là có khối thứ bố ấy đọc,
bố ấy khoắng luôn, rồi đưa vào thơ vào truyện. Bố ai biết được ma ăn cỗ.




Tôi không rõ đầu đuôi
thế nào, chỉ nhân câu chuyện về Vũ Khiêu nên chép lại ở đây. 

Mấy nét sơ lược về ý niệm thời gian ở chúng ta hôm nay


Cái
đồng hồ của người Việt Nam
là tên một bài báo của Phan Khôi in trên Phụ nữ
tân văn
1931. Trong bài viết ấy, nhà báo họ Phan cho rằng nhiều người hồi
bấy giờ dùng đồng hồ chẳng qua bắt chước người Âu - Mỹ để trưng diện ra cho đẹp, chứ
chẳng mấy khi coi giờ: nói chung, với người Việt Nam đầu thế kỷ XX thì giờ ( = thời gian ) không phải là
chuyện đáng để ý, ai ai cũng một tâm lý cơm vua ngày trời, được đến đâu hay đến
đấy.


thời
gian của sự bình lặng, thời gian tính bằng tháng năm


Những
nhận xét của ông nhà báo nổi tiếng là gàn bởi hay nói thẳng này không phải là
vô lý.


 Sự bình lặng là đặc điểm chủ yếu làm nên nhịp
sống của xã hội Việt Nam thời trung đại và nó cũng còn kéo dài cho đến thời
Pháp thuộc.




Trong
hoàn cảnh một nền kinh tế tiểu nông, sự làm ăn trông chờ cả vào mưa thuận gió
hoà, người ta không thể nào có được một thái độ tự giác về thời gian, như ở các
nước công nghiệp phát triển. Ngày tháng trôi qua đều đều, hôm qua đã vậy, mà
mai đây cũng vậy, năm trước là hình ảnh gợi ý của năm sau.


Cảm
giác này còn thấy rõ khi đọc lại nhiều tác phẩm văn chương tiền chiến. Chẳng
hạn, trong Cô hàng xén, Thạch Lam ghi lại ý nghĩ của cô Tâm. “Cái đòn gánh cong xuống vì hàng nặng, kĩu
kịt trên mảnh vai nhỏ bé theo nhịp điệu của bước đi: chịu khó, chịu khó, từng
tí một, hết bước nọ sang bước kia, cứ thế mà đi không nghĩ ngợi, Tâm thấy ngày
nay cũng như mọi ngày, ngày mai cũng thế nữa, tất cả cuộc đời nàng lúc nào cũng
chịu khó và hết sức như tấm vải thô dệt đều nhau
”.


Còn
trong Hai đứa trẻ, tác giả cũng phác ra cho thấy cả một nhịp sống chậm
chạp, con người lấy việc làm theo nếp ngày hôm qua là chuyện tự nhiên. Thời
gian đi qua, nó không để lại dấu ấn gì rõ rệt ngoài lời hứa hẹn rằng tương lai
vẫn thế.


Xét
về tầm vóc lớn lao và mức độ tác động tới xã hội, thì cuộc Cách mạng tháng Tám
và hai cuộc kháng chiến tiếp theo là những sự kiến lớn làm thay đổi cả hướng đi
của lịch sử dân tộc.


Thế
nhưng điều kỳ lạ là ở chỗ con người làm nên những biến chuyển đó bằng một tâm
lý rất thoải mái. Khẩu hiệu trường kỳ kháng chiến thấm vào tâm thức mọi người.
Sự từ tốn bền bỉ được khai thác để chống lại sức mạnh của máy bay trọng pháo.
Ngành nào cũng có những người đi bộ hàng tháng trời từ khu Bốn, khu Năm ra Việt
Bắc họp, rồi lại đi bộ hàng tháng trời trở về công tác bình thường.


Thời
gian lúc ấy hình như tính bằng năm tháng chứ không tính bằng giây phút.


Cho đến thời kỳ chống Mỹ, tâm lý
đó vẫn còn phổ biến. Tôi nhớ có lần cánh phóng viên chiến trường bọn tôi từ mặt
trận B5 qua trạm T.70 miền Tây Vĩnh Linh đi bộ ra Hà Nội. Chúng tôi hoàn toàn
hiểu rằng đoạn đường mà sau này tính lại, đi mất gần một tháng - cánh lái xe
giỏi chỉ đi trong một ngày.



để quên đi những mệt nhọc trên đường, chỉ còn có cách đùa bỡn:


-
Gớm cái “nước” Quảng Bình này rộng quá, đi mấy ngày không hết!


-
Có lẽ tới đây cũng phải mất từng ấy ngày để qua “nước” Nghệ An rồi mới sang
“nước” Thanh Hoá.



một lý do khiến cho ngày ấy, không ai cảm thấy sốt ruột: ai cũng tính được là
có về đến Hà Nội thì vẫn sống theo một nhịp điệu nhẩn nha như vậy.


Đại
khái xếp hàng mua gạo cho gia đình mất cả buổi sáng là chuyện thường tình, mà
nếu không xếp hàng thì cũng chỉ ngồi họp hoặc đọc báo. Hà Nội hồi những năm
chiến tranh và cả chục năm sau đó là một thành phố rất thanh vắng, xe bò còn là
phương tiện vận tải được phép lưu thông ngay trên một số phố chính, và những
đôi tình nhân có thể đạp xe thong thả trò chuyện với nhau trên đường mà không
sợ làm phiền đến ai cả.


Quả
thực, giờ đây nghĩ lại, bên cạnh một thoáng cười mỉm về cái thuở ấu trĩ đã qua,
nhiều người vẫn không khỏi thèm nhớ sự thanh thản không biết vội của thời ấy.


thời gian nay là
tiền bạc ; hối hả, chụp giật, nhưng...


Bước
sang thời phát triển hỗn hào hiện nay, cuộc sống đã trở thành khác.


Một
nhịp điệu khác hình thành.



một ý niệm khác về thời gian chi phối.


Báo
chí đưa tin Việt Nam trở thành một trong những nước tiến nhanh nhất trong việc
tăng số máy điện thoại trên đầu dân.


Nhìn
ra ngoài đường, vai trò của cái xe đạp hôm qua nay thuộc về cái xe máy mà tốc
độ, trên lý thuyết, có thể gần ngang với ô-tô. Không chỉ khách nước ngoài phàn
nàn, mà cả người trong nước, nhất là những người già, cũng đang e ngại về nỗi
xe máy ở ta đi cả trên vỉa hè và thường phóng nhanh đi sát tới chỗ gây tai nạn.
Ở nhiều ngã tư rất dễ bắt gặp cảnh xe máy cố vượt lên khi tín hiệu đèn đỏ đã
bật: với nhiều người, chưa bao giờ thời gian trở nên bức xúc như bây giờ!


Từ
chỗ là một thứ của kho vô tận và thuộc về mọi người, như khí trời, như nước
sạch, nay thời gian đã trở thành một thứ sở hữu cá nhân, nó được ý thức như một
giá trị to lớn và là ngọn nguồn của mọi giá trị khác. Cái câu cổ nhân xưa từng
nói thì giờ là tiền bạc, nay nhiều người mới thật thấm thía.


Tuy
nhiên, sẽ là vội vàng nếu như nói rằng một ý thức hoàn toàn mới về thời gian đã
ngự trị. Tốc độ cho phép của xe máy lên tới 50-60 km, nhưng ở thành phố, xe chỉ
chạy khoảng 20-30km gì đấy.


 Từng người cố đi nhanh nhưng sự vận động của
cả khối người trên đường chẳng hơn xưa là bao.


 Vả chăng nhiều người phóng xe máy như điên,
chẳng qua chỉ cốt để kịp có mặt trong một bữa nhậu, hoặc một buổi họp nhạt
nhẽo, và giá theo dõi một thanh niên luồn lách trên đường, vượt cả đèn đỏ ngã
tư, lát sau sẽ thấy anh ta ngồi hàng tiếng đồng hồ trong quán karaokê.


Sự chuyển pha còn dang dở: hiểu rằng thời gian là quý nhưng làm sao để
biến thời gian ấy thành giá trị thực sự, nhiều người vẫn không biết.


Nay
là lúc thấy thịnh hành ở cả giới buôn bán lẫn giới lao động trí óc (chẳng hạn,
các nhà sáng tác văn chương hoặc các cán bộ nghiên cứu khoa học) một lối làm ăn
tạm gọi là chụp giật. Hàng ngày chơi dài, chỉ thỉnh thoảng mới bắt tay vào
việc, song đã làm là tốc chiến tốc thắng, làm ù một cái cho xong.


Hãy
nhớ lại thời xưa, có những người cả đời chỉ theo đuổi một công việc chuyên môn
nào đó, và họ kiên trì làm đến cùng.



cảm tưởng như họ cầm nắm được thời gian, cảm nghe được sự liên tục của nó, biết
hướng mình sống hoà thuận với nó. Nói như cách nói của sách vở: họ tin rằng
thời gian ủng hộ họ.


Cảm
giác ấy, niềm tin ấy, nhiều người ngày nay không có!.


thời
gian và đời sống tinh thần của xã hội


Nếu
như ở mỗi cá nhân, ý niệm về thời gian chủ yếu liên quan đến việc sử dụng ngày
tháng sao cho hữu hiệu, thì xét ở phạm vi cộng đồng, điều này chủ yếu bộc lộ
qua ý niệm về quá khứ hiện tại và tương lai mà cộng đồng đó đã và sẽ sống, từ
đó toát lên quan niệm về sự phát triển của bản thân cộng đồng trong quá trình
lịch sử.


Đây
là một vấn đề quá lớn, trong phạm vi của mình, chúng tôi chỉ xin nêu một nhận
xét nhỏ:


--
với người Việt hôm nay, thời gian vẫn đang được đơn thuần xem như một sự kéo
dài liên tục, hiện tại là sự kéo dài của quá khứ, và tương lai là sự kéo dài
của hiện tại.


--
Quá khứ chỉ được xác định một lần và cứ
thế mãi mãi tồn tại
. Trong đời sống tinh thần chung của xã hội, cả quá khứ
gần (thời chống Pháp chống Mỹ) lẫn quá khứ xa xưa (thời Hùng Vương hoặc thời Lý
Trần) luôn luôn có mặt, nó đem lại cho hiện tại vừng hào quang sức nặng và lòng
tự tin và nó sẽ là nhân tố chủ yếu quy định tương lai.


        - Ơi kháng chiến! Mười
năm qua như ngọn lửa,


         Nghìn năm sau còn đủ sức
soi đường.


                                                             Chế
Lan Viên


Chính
trên cái mạch nghĩ chung ấy, quá khứ thường được hình dung bằng những phạm trù
giống như hiện tại, và nếu như trong các sáng tác văn nghệ, những anh hùng dân
tộc trong quá khứ có suy nghĩ nói năng hệt như con người thế kỷ XX thì cũng là
điều dễ hiểu.


Khó
mà tìm được một tiêu chí khắc hoạ đầy dủ bản chất của văn hoá, như khái niệm
thời gian. Trong khái niệm ấy, thấy thể hiện đầy đủ cảm quan của thời đại về
thế giới, hành vi và ý thức của con người, nhịp điệu của cuộc sống”.


 Một nhà nghiên cứu văn hoá người Nga, ông
A.Ju.Gurevich trong cuốn Những phạm trù văn hoá trung thế kỷ (đã có bản dịch tiếng Việt của Hoàng Ngọc Hiến, nhưng chưa bao giờ được giới nghiên cứu khoa học xã hội ở ta xem trọng)  đã rất có
lý khi viết như vậy.


Do
chỗ ý niệm về thời gian liên quan đến văn hoá, nên chúng ta hiểu tại sao nhiều
người nước ngoài đến Việt Nam có ngay nhận xét về cách sử dụng thời gian của
người Việt.


 Xu hướng chung ở đây là họ - nhất là người ở các nước Tây Âu - tỏ
ra khó thích ứng với cái kiểu tuỳ tiện “gặp đâu hay đấy”, “nước đến chân mới
nhảy” của chúng ta. 


Nhưng gần đây, cũng đã bắt đầu thấy có xu hướng ngược lại.
Một hoạ sĩ người Đức kể lại rằng lúc đầu mới học làm sơn mài, bà thấy quá nặng
nhọc vì phải kiên nhẫn chờ đợi và đặc biệt phải nhạy cảm với những thay đổi bất
ngờ của màu sắc. Mãi sau bà mới phát hiện: qua quá trình lao động khá đơn điệu
đó, bà có điều kiện để “thấy thời gian thực sự là hiện hữu”. Đi xa hơn một bước
nữa, người phụ nữ này còn lấy cách nhìn của người Việt Nam hiện thời để quay
lại đánh giá cách sử dụng thời gian ở phương Tây. Bà tâm sự: “Sau khi được sống
trong một cuộc sống đầy màu sắc sinh động ở Hà Nội, chúng tôi cũng cảm thấy sẽ
có phần nào tẻ nhạt nếu trở lại những thành phố quê hương với lối sống quá công
nghiệp, quá khắc nghiệt về thời gian. Ở đó thậm chí chúng tôi chẳng có đủ thì
giờ quan tâm tới cái chết của người thân quen nữa”. (xem báo Thể thao và văn
hoá
, số ra 24.11.2000).


Qua
người mà hiểu mình, cái quy luật có tính chất chủ đạo ấy trong nghiên cứu văn
hoá lần này lại được chứng nghiệm. Chép lại mẩu chuyện này ở đây, chúng tôi
chưa dám nói ngay rằng nhận xét của người hoạ sĩ kia đã chính xác hay chưa mà
chỉ nhằm lưu ý là chúng ta cần phải lắng nghe, phải đối chiếu so sánh rất
nhiều, phải biết thêm những cách nhìn khác về chính mình, thì mới đi tới chỗ tự
nhận thức một cách chính xác.


 Trên báo Ngày nay số ra 12.9.1937, nhà
văn Thạch Lam trong một bài báo ngắn, sau khi kể lại rằng một người Pháp rất
khen tục thờ cúng ở ta, đã nói thêm “
cái đó là tuỳ ông thôi, còn chúng tôi,
chúng tôi thấy chúng tôi quá trọng người chết, quên hẳn mất việc sống (...)
chen chúc nhau mà chết đói chứ không chịu đi đến những nơi khác để chen vai
thích cánh với người ta”.



đây, nhân bàn về một ý kiến người ngoài, Thạch Lam đã bắt đầu nhìn ra cái “thời gian lớn” là chuyện sống chết, và xem mục đích sử dụng là một trong những dấu hiệu làm nên ý niệm thời gian của một cộng đồng … Nhưng câu chuyện đã  chuyển  sang phạm vi triết học, chúng tôi chỉ
ghi lại như trên mà chưa biết bao giờ đủ sức để bàn tiếp.








Vốn là bài SỰ  CHUYỂN PHA CÒN DANG DỞ,




  in trong Nhân
nào quả ấy
 H. 2004 , có viết lại mấy
câu cuối.

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

Bạo lực có mầm mống trong xã hội Việt


Bài trên mạng VnMedia 19-3-2010








(VnMedia) -
Clip nữ sinh bạo lực khuấy động dư luận. Nhiều người sửng sốt vì tình trạng bạo
lực học đường. Nhiều người khác giật mình chất vấn giáo dục, xã hội. Trong khi
đó, nhà nghiên cứu văn hoá Vương Trí Nhàn cho rằng: Bạo lực có mầm mống trong
xã hội Việt mà ta không tự thấy.























Năm nay gần 70 tuổi, Vương Trí Nhàn
đã làm phê bình lý luận văn học trong vài thập kỷ và sau này chuyển sang nghiên
cứu văn hoá. Ông được biết đến là một trong những người đầu tiên chủ trương
nghiên cứu về những thói hư, tật xấu của dân tộc Việt Nam và là người được chú
ý nhất trong mảng công việc này.







Loạt bài viết của ông về các thói
xấu của người Việt được đăng tải thường kỳ trên báo Thể thao & Văn hóa cách
đây vài năm đã trở thành một chuyên mục thu hút sự chú ý của nhiều độc giả và
gây ra tranh luận nhiều chiều. Thậm chí, có nhiều người mong muốn có thể tập
hợp thành sách “Người Việt xấu xí”, tương tự cuốn sách gây sốc Trung Hoa đại
lục mang tên “Người Trung Quốc xấu xí” của tác giả Bá Dương.





Năm 2007, khi vụ scandal clip sex
Vàng Anh - Việt Dart nổ ra, trong khi dư luận ầm ĩ xung quanh vụ việc này,
trong khi nhiều người cũng sửng sốt và giật mình không khác gì với hiện tượng
clip nữ sinh ẩu đả vừa qua… thì Vương Trí Nhàn nhìn vào sự kiện theo một cách
tiếp cận rộng hơn ở góc độ dân tộc tính. Nhận định của ông “Dân tộc Việt là một
khối tự phát khổng lồ” trong một bài trả lời phỏng vấn trên báo mạng ngay lập
tức dấy lên một làn sóng tranh luận với nhiều ý kiến đa chiều: Có nhiều ý kiến
cực lực ủng hộ và không ít tiếng nói phản đối gay gắt.





Ở hiện tượng xã hội gây xôn xao dư
luận lần này, những nhìn nhận của ông cũng mang lại cái nhìn tương đối rộng mở
và mới mẻ. Và, đương nhiên, cũng không ít ý kiến có thể sẽ gây tranh cãi… Tuy
nhiên, chúng tôi nhận thấy đây là hướng suy nghĩ cần được tiếp tục bàn luận.



Dưới đây là trao đổi của VnMedia với ông trên tinh thần này.




 Sẽ còn những biểu hiện bạo lực mới





Tuần qua cả xã hội xôn xao với clip
nữ sinh đánh hội đồng bạn trên phố. Nhìn nhận của ông xung quanh hiện tượng
này?





Việc các em nữ đánh bạn dã man như
trong clip là biểu hiện của một cách sống mà trong đó bạo lực trở nên cần thiết
trong giao tiếp giữa người với người, mà người ta cho rằng, lời lẽ thông thường
không còn đủ để tác động tới người khác.





Cảnh tượng trong clip này là sự tràn
ra của một cái gì đó đã đến mức không bình thường… Nếu đọc báo những năm qua sẽ
thấy nhiều hình thức bạo lực trong xã hội. Ngay trong môi trường giáo dục,
không biết bao nhiêu vụ hoặc các cô trông trẻ bạo hành với trẻ con, hoặc các
thầy cô giáo đánh phạt học trò hay các học trò đánh lại thầy cô giáo…





Những việc như thế này tôi cho rằng
sẽ còn tiếp tục có những biểu hiện mới, với những cấp độ rồi sẽ còn cao hơn.
Nếu chúng ta không tính chuyện chữa trị lâu dài, và trước tiên là tìm về tận
gốc để lý giải một cách khái quát, rồi thì sẽ còn lĩnh đủ.





Có thể hiểu như thế này, sự xuất
hiện của clip nữ sinh bạo lực kia trong xã hội tương tự như việc một người
huyết áp thấp bị ngã ngất lần đầu. Họ hẳn là ngỡ ngàng nhưng cái sự ngất ấy nó
không hề ngẫu nhiên. Và nếu chưa biết là mình bị huyết áp thấp, người ta sẽ
không ý thức là mình có thể đối diện nguy hiểm hơn trong những lần ngất tiếp
theo?





Tôi chia sẻ với lối ví này của bạn ở
khía cạnh: Nhiều khi phải có những “cú điếng người”, ta mới hết nhởn nhơ coi
thường và bắt đầu nhận ra những thứ tiềm ẩn trong mình. Cái nguy hiểm hôm qua
đã đáng sợ, nhưng cái nguy hiểm tiếp theo mới thật đáng bàn.





Bây giờ thử bình tĩnh mà nhìn lại
xem, hóa ra trong nhiều mặt đời sống người Việt, mầm mống bạo lực đã có mặt và
ta đã chung sống với nó quá lâu - cái cách sống bạo lực ấy - mà ta không biết.


  


Tôi muốn nhấn mạnh hai điều.





Một là, sở dĩ có hiện tượng lớp trẻ
sống với nhau theo kiểu bạo lực, vì người lớn cũng hành xử theo kiểu bạo lực.
Xã hội đen. Giới giang hồ thanh toán nhau. Những vụ cướp giết hiếp, và cả những
vụ nợ tình, trả thù… Có quá nhiều sự việc trong xã hội mà chúng ta chưa phản
ánh hết, chưa có dịp phân tích soi rọi.





Hai là, trước khi có những biểu hiện
cực đoan theo kiểu bột phát nói trên, nhiều hình thái tạm gọi là tiền bạo lực
cũng đã nhan nhản trong đời sống hàng ngày. Muốn ép người ta phải nghe mình
điều gì đấy nói một lần chưa đủ, nói đi nói lại hàng trăm lần, bắc loa vào nhà
người ta lải nhải…





Ai đi cầu cúng đầu năm hẳn nhớ cảnh
dân địa phương nhiều nơi vừa thấy người đi chùa thì áp sát, bắt người ta mua đồ
cúng của mình, lèo nhèo nói đi nói lại, không mua thì chửi xéo chửi đổng, đốt
vía đốt vang… Đấy là tiền bạo lực chứ còn gì nữa?





Lâu lắm rồi từ 1999, tôi đọc trên
báo Nông thôn ngày nay thấy một hiện tượng kỳ cục ở một tỉnh nhỏ. Giữa công ty
X và công ty Y có sự tranh chấp. Để trả thù, bên Y liên tiếp gửi tới bên X
những chiếc quan tài và các vòng hoa tang, trong đó đề rõ tên tuổi kẻ thù của
mình. Kiểu khủng bố độc đáo này thật tiêu biểu cho người mình, tức là ác vặt,
nhưng mà cứ ác một cách dai dẳng đáng sợ.





Đạo diễn Xô viết Mikhail Rom từng có
một bộ phim mang tên “Chủ nghĩa phát xít thông thường”. Ở ta giá có ai bắt
chước mà làm một bộ phim “Chủ nghĩa bạo lực thông thường”, chắc cũng dễ có một
tác phẩm có sức răn đe với xã hội.





Bạo lực có mầm mống trong xã hội
Việt





Ở trên ông vừa nói nhiều mặt trong
đời sống đã tiềm ẩn yếu tố bạo lực mà ta không ý thức.. Ông có thể nói rõ hơn
một chút về cái ý này?





Gần đây tôi đã viết trong một bài
báo, ngay cách đi đường của người Việt Nam hôm nay cũng có tính chất bạo lực.
Chúng ta có xu hướng chen lấn, xô đẩy, chèn ép người khác để vượt lên... Không
ở đâu tiếng còi bị lạm dụng như ở ta. Nó có tính hối thúc, đe nẹt, doạ dẫm…
Nghe trong tiếng còi như toát lên một lời đe dọa: nếu không tránh cho tôi đi,
anh sẽ biết mặt.





Thơ văn cho thấy chúng ta yêu thiên
nhiên, sống chan hoà với cỏ cây, hoa lá. Nhưng trong đời sống tôi thấy tình yêu
thiên nhiên này… chạy đi đâu cả. Văn học nói cái điều ta muốn, nhưng trong đời
sống ta hiện ra hoàn toàn khác. Để tự nuôi sống, ta chưa biết tìm thêm cách để
làm giàu thiên nhiên mà nhiều khi chỉ lo bóp nặn, bóc lột thiên nhiên.





Khách quan mà xét, đứng ngoài mà
nhìn, phải nói đó là một cách ứng xử khá tệ bạc. Chặt cây, phá rừng, đốt rẫy…
ta làm những việc đó vô tư chứ chả cần quan tâm gì đến thiên nhiên. Đến khi no
đủ rồi thì lại bẻ hoa, ngắt cành vì thú vui của mình. Những dịp lễ tết cây cối
xơ xác vì bị vặt cành làm lộc. Rồi các sự việc ở lễ hội hoa anh đào năm trước
và lễ hội hoa đầu năm dương lịch vừa rồi. Chẳng nhẽ không nói đó là cách sống
bạo lực?





Chúng ta cũng không phải là dân tộc
yêu thương các giống vật. Các loài thú quý hiếm đang đứng trước nạn tận diệt. Ở
nhiều nơi người ta sẵn sàng dùng điện, dùng chất nổ đánh cá... Rất nhiều người
phương Tây ngạc nhiên vì chúng ta ăn thịt chó, là vật nuôi mà họ coi như bạn bè
của con người.





Từ tháng 4 tới, Trung Quốc chính
thức cấm ăn thịt chó mèo. Ở ta tôi không nghĩ được là bao giờ có thể có một
lệnh cấm tương tự. Nhiều cuộc chọi trâu xong, dân sở tại mổ ngay con trâu vừa
đoạt giải để bán cho dân tới xem. Chẳng có luật pháp nào kết tội người ta được,
nhưng tôi cứ luấn quấn với ý nghĩ làm thế là một cách gieo mầm bạo lực mà ta
không biết.





Đừng quên đi quá nhanh như thế


Thử nhìn lại sự việc. Các em trị
nhau ngay giữa phố một cách bạo lực. Bạn bè thản nhiên ngồi nhìn. Không thấy ai
đứng ra can ngăn. Khi quay xong hình, các em khoái trá post lên mạng, nhiều
người truyền cho nhau qua internet để cùng xem clip đó. Đó là một chuỗi sự vô
cảm cho đến khi thành sự kiện hot thì xã hội mới bùng lên chất vấn. Ông có bình
luận gì thêm về việc này?





Từ lâu phương Tây người ta đã nói
đến sadism với nghĩa thói quen thích thú những trò tàn ác bao gồm cả quan sát
người khác làm lẫn tự mình thực hiện. Những tưởng đó là chuyện đâu đâu, hóa ra
xứ mình không phải không có.





Ngoài ra tôi muốn ghi nhận một tình
trạng nước đôi thế này: Không hẳn là vô cảm đâu, nhiều người chúng ta cũng đang
xúc động lắm. Chỉ có cái dở là rồi chúng ta lại quên đi rất nhanh. Tôi nhớ
những lần lòng mình sôi lên thầm hứa nhất định không bỏ qua chuyện nọ chuyện
kia. Nhưng chỉ ít lâu sau là tôi quên hết.





Để vượt lên sự nông nổi, tôi chỉ
muốn nhân dịp này chúng ta cùng suy nghĩ về gốc rễ của bạo lực trong đời sống.






Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014

Nghề thầy, suy đồi hôm nay chỉ là nối tiếp tình trạng yếu kém hôm qua


Những kẻ loàng xoàng


    Một
người bạn tôi có đứa con học năm cuối cùng ở một trường đại học. Sức học trung bình,
may nhờ có ông bố nên xin được thực tập ở một cơ quan nọ, vậy mà cũng lắm tiếng
ỉ eo lắm. Nhưng anh bạn tôi đã xì ra một lối thoát:


-- Ấy thế mà cậu cả nhà mình lại đang
được mời ở lại trường giảng dạy đấy.  Nếu
lo cho nó đủ khoản tiền người ta đòi thì mình cũng đến cho nó đi dạy thôi.




-- Đâu bây giờ chả cần tiền, nhưng
tôi chỉ lạ sao anh bảo nó sức học loàng xoàng cơ mà?


-- Bao nhiêu đứa giỏi đã đi ra làm
việc ở Bộ nọ ngành kia cả, số thật giỏi lại còn được tuyển dụng vào các xí
nghiệp nước ngoài nữa. Đời nào bọn đó chịu ở lại trường. Đến lượt con mình có gì là lạ. Ông chẳng hay nhắc lại cái câu của Xuân Diệu "thời nay là thời lý tưởng của bọn mediocre [tầm thường] là gì?   


  
Tôi nghĩ lại, chuyện rành rành thế còn đi hỏi, không ngờ mình lẩn thẩn
quá.




 Di lụy của lịch sử


 
Không phải đến ngày hôm nay, mới có tình trạng bao nhiêu những kém cỏi
trong giới trí thức dồn cả cho ngành giáo dục.


 
Thời trung đại, cả nước chỉ lo học để đi thi, ai thi giỏi đều ra làm quan.
Chỉ có những người lạc đệ (thi trượt)
mới quay về làm nghề gõ đầu trẻ.


  
Tình trạng này được kể lại rõ ràng trong tiểu thuyết Lều chõng của Ngô Tất Tố. Nhân vật thầy
giáo  Khắc Mẫn chỉ làm trò cười cho các bạn trẻ hơn như Vân Hạc. Anh ta đã dốt, lại
hay khoe khoang chữ nghĩa, có lá thư cho đồng môn cũng viết bằng những ngôn ngữ sáo mòn.


  
Vậy mà anh ta vẫn nhấp nhổm đi thi thi tiếp, may ra có thể thoát được
bọn trẻ ”nửa người nửa ngợm nửa đười ươi.”


[Nhà trống ba gian ,
một thầy một cô, một chó cái


Học trò dăm
đứa, nửa người nửa ngợm nửa đười ươi


– tương truyền đây là toàn văn hai vế câu đối dán trong nhà Cao Bá Quát]


   


   
Đến cái thời của bọn tôi, ở trường cấp III Chu Văn An những năm 50-60
của thế kỷ XX.


   
Cuối năm lớp 10 (tương đương lớp 12 bây giờ), chi đoàn của lớp 10 C tập
trung lo vận động một số anh em giỏi giang hãy tự nguyện thi vào Đại học sư
phạm. Tại sao ư, đơn giản lắm, bao nhiêu nhân tài trong lớp đều chăm chăm nộp
đơn vào các trường khá như Bách khoa, như Y Dược cả (“nhất Y nhì Dược tạm được Bách khoa Sư phạm thông qua Nông lâm xếp xó”).


  
 Các trường sang trọng không dành
cho những anh kém. Điểm vào Y dược Bách khoa cao hơn hẳn điểm vào sư phạm. Mà
cũng phải thôi, sau khi ra trường, lương ở các ngành đó bao giờ cũng cao hơn
lương dân sư phạm, chưa kể sinh viên sau khi ra trường lại thường được về các
thành phố lớn.Vậy phải vận động người ta đi làm thầy. Số người gọi là sinh ra đã cảm thấy yêu "nghề trồng người" từ thời
bao cấp cũng đã hiếm lắm. Không kể đám lửa rơm xốc nổi, cái số chân thành tự tin,
trăm người mới có một vài. Mà sau thời gian chịu trận, bám trụ đến cùng sống với nghề nghiệp bằng nguyên vẹn tình yêu
như thuở ban đầu, số đó càng hiếm.


 


   Tôi năm đó đăng ký thi vào khoa Văn Đại học
Tổng hợp, thi trượt, phải chuyển vào Đại học sư phạm Vinh. Ngày nhập trường,
ngồi trên chiếc xe chở khách Hà Nội - Nghệ An  qua các bến phà Kiểu, phà Gián Khuất, phà Hàm
Rồng…, 300 km mất cả một ngày đường, đã khóc hết nước mắt.


 
 Một anh bạn từ Quảng Bình thi vào
trường Vinh từ đầu an ủi:


-- May mà còn có chỗ này chui vào để
được cái tiếng học Đại học, chứ nếu không bọn đui què mẻ sứt chúng mình về đi
cày hết cả à?  





Đòn phản công của các thầy các cô


   Thời
ấy sự coi thường của xã hội đối với nghề gõ đầu trẻ được các đồng nghiệp sư
phạm của tôi đáp trả lại một cách bình tĩnh. Ra trường, biết thân biết phận, nhiều
người trong họ sẵn sàng về những tỉnh lẻ, những miền quê heo hút, sống lam lũ bên
cạnh những cán bộ công nhân viên lớp dưới và những người nông dân nghèo khó.


  
 Nhiều người phải có các nghề tay
trái cùng làm với vợ con để kiếm sống.


  
 Đến mức có giáo viên đã định
nghĩa một cách chua chát, người thầy cấp I là người nông dân có thêm nghề phụ
là nghề dạy học.    


 


  
Từ chỗ bị coi thường, rồi giáo giới rồi cũng đã có sự khôn ngoan cần
thiết để tồn tại.  


 
 Thời chiến đi qua. Mọi tầng lớp
trong xã hội, kể cả những người lính đi chiến trường về, bắt đầu lo cho con cái,
bởi lẽ họ bắt đầu hiểu rằng trong làm ăn kinh tế, phải có kiến thức. Họ cũng
sớm hiểu tình trạng bị bạc đãi của các thầy các cô. 


   Thay cho sự quan tâm của
nhà nước, họ tự động làm cái việc chữa cháy theo cách riêng của họ.


   Vốn chẳng
có hiểu biết gì về giáo dục,  họ hồn nhiên
cho rằng tốt nhất nên theo thuyết gà đẻ trứng vàng. Chỉ cần đút tiền cho các
giáo viên, là con em họ sẽ học khá học giỏi một lượt.


  Các
thầy cô giáo đáp laị ngay, cái gì chứ điểm số các môn học và việc lên lớp thì
hoàn toàn trong tay họ, làm gì mà chả được.


  
Khoảng mươi lăm năm trước, khi đứa con nhỏ của tôi còn học cấp I, việc mỗi
đầu học kỳ đến gặp cô biếu xén tí chút là việc các phụ huynh học sinh đều tự
nguyện làm, và chúng tôi thường sung sướng sau khi hoàn thành nghĩa vụ của
mình, như các phụ huynh khác. Ngày nay, tình trạng trên tiếp tục, tinh vi hơn
cũng có, mà trần trụi hơn cũng có. Một số bạn tôi có con học ở mấy trường Đại học tỉnh còn bảo rằng có tình trạng giáo viên yêu cầu sinh viên phải nộp tiền hàng tháng, nếu
không thì sẽ không có điểm. Tôi chẳng hiểu nếp tẻ gì, song tin là có thật.
Trong mọi lầm lạc hôm nay, mỗi con người đều thường tìm được cái lý riêng của
mình.





  
Tôi nhớ những năm trước 1975, các gia đình Hà Nội trong khi tính toán gả
chồng cho con gái, thường bảo nhau, cốt nhất là được các cán bộ thương nghiệp,
hoặc ngành thuế. Chứ thầy giáo ấy ư, đã có thời người ta xâu chuỗi nhà văn nhà báo nhà giáo nhà nghèo.


   Thời
ấy các ông chồng biết tính toán nếu có bằng lòng lấy vợ giáo viên chỉ vì biết nghề
đó lương thấp nhưng nhàn, lại có thời giờ dạy dỗ con cái.


 
  Nay thì đã khác. Thỉnh thoảng cũng thấy nói
lương giáo viên không đủ sống, nhưng  xét
đại trà, là khác. Biết với nhau thôi chẳng ai buồn cãi lại vì cũng như câu
chuyện ông vua cởi truồng, ai tự vạch áo cho người xem lưng làm gì. Ở cái nước
này nghề gì chẳng đang kém đi, nghề nào chẳng ăn, cứ gì nghề giáo. Nhất là, cũng
như bên y tế, lạy trời nghề làm thầy thời nay không lo kinh tế lạm phát hay giá
cả leo thang gì cả. Nước đến đâu bèo đến đấy. Thời nào người ta chẳng phải chữa
bệnh. Quát giá khám bệnh cao mấy chẳng được. Thời nào chẳng phải cho con đi
học. Lấy lý do nuôi con ăn học, phụ huynh càng quyết tâm ăn cắp tham nhũng.





   
Trên đây là chuyện xảy ra đối với
đội ngũ đông đảo là giáo viên loàng xoàng, nơi chỉ có cái lợi chi phối.


  
Còn đối với loại giáo viên có máu mặt ở các trường điểm trường chọn và
giới giảng dạy Đại học ,tình hình bề ngoài có khác, nhưng xét ở xu thế suy thoái
của nghề thì cũng chẳng khác.


  
Trong xã hội chiến tranh hôm qua, kiến thức bị coi thường bị khinh bỉ (Thà một cây chông trừ giặc Mỹ -- Hơn ngàn
trang sách luận văn chương
– Tố Hữu). Nay đi đâu cũng đòi bằng cấp, đến cả
các ông bộ trưởng thứ trưởng tiền của và uy quyền đầy mình cũng còn hét các
trường Đại học thuộc bộ khoác thêm cho mình cái học hàm giáo sư, cái học vị
tiến sĩ. Mà muốn thế thì các ông phải nâng giá cho đội ngũ dạy Đại học.


   
Cái cách tự lo của các giáo viên cấp thấp xem ra hơi xoàng. Các thầy cấp
cao có cách đáp ứng riêng. Giáo dục phải trở lại truyền thống tôn sư trọng đạo.
Giáo dục làm nên tương lai. Các anh có muốn có một tương lai tốt đẹp không mà
lại coi thường chúng tôi. Trong khi  vẫn
kỳ cạch làm ăn theo kiểu cũ, trong các bậc thày này sẵn có một niềm tin rằng xã hội chẳng tìm đâu ra lớp người hơn họ.
Họ phải làm thầy trên đủ mọi phương diện tiếng tăm và đãi ngộ.





   
Trong số các đàn anh của tôi có những người chỉ mới lập thân sau các vụ
thanh trừng Đại học 1957-58, cả đời không đọc được sách báo nước ngoài, lọ mọ
dựa vao một số sách giáo khoa Liên xô mà những năm trước, lớp anh em đi học
nước ngoài giới thiệu. Thế mà sau mấy chục năm kẽo kẹt vận dụng vào tình hình
trong nước, cuối cùng đã bao nhiêu sách in, đã thành trí thức đầu ngành, đã đào
tạo được bao nhiêu tiến sĩ.


  
Thực ra tôi biết nhiều vị đàn anh này cũng là những người rất thông
minh. Giá kể ở một môi trường có những đòi hỏi cao hơn, họ có thể tiến rất xa.
Ở ta, người ta yêu cầu họ có thế và họ chỉ có cái lỗi là thiếu sự đòi hỏi cao
với mình, không dám đi ngược lại hoàn cảnh.


  
Có phải chỉ riêng văn sử thế đâu, nghe như bên kinh tế thương mại, tình
hình cũng chẳng khác.





 Đôi điều
nói lại


  Cái đặc
điểm của giáo dục ta là ở chỗ chính người trong nghề tự đặt ra tiêu chuẩn cho
mọi công việc của mình, chất lượng đào tạo có ngày một kém cỏi thì họ cũng tha
hồ cãi lại.


  
Trong các nền giáo dục khác, tôi thường thấy có vai trò thanh tra giáo
dục. Ở ta thì chả ngành nào có thanh tra theo đúng nghĩa của nghề này cả, giáo
dục cũng vậy.





 
 Xét rộng ra thì thấy trong sự suy
thoái của nghề thầy ngày nay tôi biết có sự đóng góp quyết định của bộ phận
những quan chức các cấp trong nghề giáo dục, bao gồm từ những người định ra các
chương trình các thang điểm, các môn thi, người biên soạn sách giáo khoa… cho
tới các nhân viên các sở các phòng và hàng
ngũ các hiệu trưởng cùng là nhân viên hành chính trong trường.


  
Người giáo viên nhận tiền của học sinh có phải ăn một mình đâu. Dưới
nhiều hình thức khác nhau, họ phải trích nộp cho các nhân viên bộ máy hành
chính trong nghề. Cũng như người bác sĩ nhận tiền của bệnh nhân phải cống nộp
cho người phụ trách bệnh viện và các khoản chi cho hoạt động chung trong viện. Điều oan uổng
cho giới giáo viên là cho đến nay chỉ họ bị chường mặt ra còn các nhân viên
guồng máy quản lý và đào tạo họ vẫn chưa bao giờ được sự soi rọi của dư luận.


 
  Bởi những lẽ đó chúng ta hiểu tại sao tình trạng
bê bết trong giáo dục hiện nay lại kéo dài . Nó không chỉ có lợi cho đội
ngũ giáo viên đương nhiệm. Cả hệ thống quan chức trong nghề cũng chỉ mong rằng
mọi thứ cứ giữ nguyên tình trạng như cũ. Trong các tài liệu chính thức, nền
giáo dục lan ra theo chiều rộng hiện nay vẫn luôn luôn được coi là thành tựu
của đất nước.





Người biết từ chối


   
Muốn tìm cho bài viết này một hơi hướng vui vui, tôi chợt nhớ lại về một
pho truyện cười khá phổ biến ở ta là Trạng Lợn. Khác với Trạng Quỳnh gian xảo
và khinh rẻ mọi người, Trạng Lợn hiền lành, đôi khi khờ khạo, phất lên được là do gặp may, kể cả có một gia
đình hạnh phúc và  bà vợ đến cuối đời vẫn không biết rõ thực chất cuả chồng mình.


   Cuối
truyện, khi Trạng trở về với gia đình, bà vợ ấy-- vốn là con gái một quan chức, trong
truyện gọi là Phu nhân Phấn Khanh – bảo bây giờ Trạng phải ở nhà dạy con để
lo người kế nghiệp.


   
Trạng trả lời đại ý mình biết gì đâu, thôi phu nhân cứ làm như khi Trạng
vắng nhà, và bỏ đi chu du các vùng lạ.


    Đọc đoạn này, lâu
nay tôi chỉ nghĩ ra Trạng cũng hiểu thành đạt do gặp may chứ mình chẳng tài cán
gì. Một cách nghĩ xa lạ với nhiều người Việt hiện nay, dù họ cũng phất lên theo
kiểu trạng.


   
Nhân ngày 20-11 năm nay, tôi nghĩ thêm, hóa ra trong xã hội Việt Nam
trung đại cũng đã có người biết rằng việc giáo dục là việc trọng đại, không phải
bất cứ ai cũng làm được. Tương lai chỉ được làm ra một cách nghiêm túc chứ không thể là chuyện ăn may.
 Và người ta có thể bịp thiên hạ
trong nhiều việc khác, nhưng không thể bịp trong việc giáo dục lớp trẻ.


     Trong trường hợp không biết làm
thầy và quản lý giáo dục, thì từ chối đi là lương thiện nhất.


  
 Nghĩ xong cũng biết ý nghĩ của
mình lạc lõng, nó quá cổ lỗ đối với con người hôm nay. Song đã chót nghĩ xin cứ
chép ra đây.




Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2014

Nhà văn làm gì đây lúc về già ? (bài II): Hoàng Ngọc Phách và một sự dừng bước đúng lúc.


Với một
khối lượng chữ nghĩa khiêm tốn - in ra chưa đầy 100 trang khổ sách 13x19, tiểu
thuyết Tố Tâm xuất hiện như một cuốn sách lạ trong đời sống văn chương
những năm đầu thế kỷ XX.


Nhưng
có điều lạ hơn, là sau khi ra đời, cuốn sách ấy được in đi in lại nhiều lần và
sự thực là chỉ riêng nó thôi, đã đủ sức đưa Hoàng Ngọc Phách (1896-1973) vào lịch
sử văn học.




Trong
quá trình tìm hiểu trở lại đời sống văn chương đầu thế kỷ XX, tôi thường nhớ lại
trường hợp Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách để hiểu ra một cách tồn tại khá
sang trọng trong văn học.
 Ở đây, có mấy điểm, nó là chỗ khác so với cách làm văn chương của chúng ta hôm nay.   

                


Trong khi Hoàng Ngọc Phách viết
xong sách từ 1922 mà để mãi, tính mãi, rồi qua 1925 mới cho in thì nhiều người
viết hôm nay có thói quen mải mốt viết lấy được, mới đặt cái tên đã lo xin giấy
phép, và viết xong một lần,  đọc lại
quáng quàng lại gửi gấp cho in.


 Điều đáng để ý hơn: 

Giá kể như ngày hôm nay,
sau một “chiến tích lẫy lừng” như Tố Tâm, nhà văn liền “thừa thắng xông
lên”, sinh năm đẻ bảy, thì từ 1925 Hoàng Ngọc Phách ngưng ngay lại. Trong khi vẫn
làm cái nghề chính là dạy học, ông tiếp tục viết lách, nhưng ngả hẳn sang việc
khảo chứng văn chương cổ, chứ tịnh không có thêm một cuốn tiểu thuyết nào nữa.





Sự khác
nhau thật đã rõ rệt.
Tạm thời
có thể hình dung, trong khi một số nhà văn hiện nay tồn tại như một bóng cây
trông xa lúc lỉu những quả là quả, nhưng đến gần nhìn kỹ sẽ là rất nhiều quả
lép quả hỏng, thì ở Hoàng Ngọc Phách cây có một cành, cành có một quả, song đây
là thứ quả chín mẩy, vỏ căng, sắc vàng đượm và đi qua, nghe được cả mùi thơm dễ
chịu riêng thứ quả chín mới có.


                                                      *


Nếu như
bất kỳ ở đâu, sự nóng vội đều đã dẫn tới hỏng việc, thì trong sáng tạo văn
chương, nó càng vô duyên một cách thảm hại. Khi truyền nghề lại cho người mới
nhập cuộc, các nhà văn lớp trước thường không quên lưu ý là ở đây số lượng phải
để ra một bên, so với chất lượng. Trong điều kiện của thời bao cấp, nhiều người
chúng ta đã miệt mài làm việc, trong bụng thành thật nghĩ rằng một đời người để
lại được dăm ba bài thơ, vài truyện ngắn, ít trang phê bình sắc sảo, cũng đã là
danh giá lắm.


Thế
nhưng mươi năm gần đây, lối sống của kinh tế thị trường xâm nhập vào cả xã hội.
So với cái từ tốn chậm chạp hôm qua, việc in ấn xuất bản hôm nay trở nên khởi sắc
như chưa bao giờ có.


Với một
số người, hình như nay là lúc có thể “ăn giả bữa”.


Gấp gáp
năng động được hiểu một cách đơn giản, tức là đồng nghĩa với nóng vội.


Ta quên
rằng mình chưa được chuẩn bị những điều kiện cần thiết, chưa đủ nội lực để thích
ứng. Mải viết, mải in, ta có ngờ đâu mình đang chạy theo số lượng, tức là rơi
vào một cuộc đuổi bắt tuyệt vọng.


 Trong khi ấy, thật ra cái chính của kinh tế thị trường là tiền nào của ấy, là mọi người
phải có mặt hàng riêng cùng những phương
cách tốt nhất trong việc khai thác bản thân mình.


Nói
cách khác, những vấn đề của nghề nghiệp phải được đặt lên bàn cân, với tất cả
tính chất khắc nghiệt của nó.


Nhưng
đây, đôi khi lại là điều, với những sốt sáy thường xuyên, ta ngại động chạm tới
nhất.





Người
ta đã nói khá nhiều về sự cần thiết của dư luận xung quanh một quyển sách mới,
nó là cái phương thức hữu hiệu, tác động trở lại nhà văn, giúp anh ta điều chỉnh
lại mình và quyển sau viết ra sẽ khá hơn quyển trước.


Nhưng
còn một điều quan trọng hơn, mỗi người viết muốn nghe ở bạn bè, ở người đọc, ấy
là những vấn đề có liên quan tới cả đời văn của anh ta.


 “ Mình sẽ sử dụng tài năng như thế nào đây?”.


 “Nên làm cái gì và nên bỏ cái gì?”.


“Đầu tư
công sức vào đâu là chính đáng?”.


Và để
chủ động sáng tạo nên số phận văn chương, cả những câu hỏi: “Ta sẽ hạ cánh ra
sao?” cũng nên được đặt ra khi chưa quá muộn.


 Sở dĩ nhiều nhà văn trước kia có chỗ đứng
riêng của họ trong văn học sử -  như trường
hợp tác giả Tố Tâm ở trên vừa nói - một phần là vì họ biết cách trả lời
riêng cho những câu hỏi lớn đó, dù không phải bao giờ họ cũng có ý thức đầy đủ.


*


Năm
1943, nhân cuộc phỏng vấn của nhà phê bình Lê Thanh, Hoàng Ngọc Phách tâm sự:


“Tiểu
thuyết Tố Tâm tôi viết trong trường Cao đẳng. Hồi đó, tôi có mục đích viết
một quyển tiểu thuyết khác hẳn những tiểu thuyết đã có cả về hình thức và tinh
thần. Về hình thức chúng tôi xếp đặt theo những tiểu thuyết mới của Pháp, lối kể
chuyện, tả cảnh, theo văn chương Pháp cả. Về tinh thần, chúng tôi đem vào những
tư tưởng mới, tâm lý nhân vật được phân tách theo phương pháp của những nhà tâm
lý tiểu thuyết có tiếng đương thời”.


Đã rõ
là Hoàng Ngọc Phách muốn làm một cuộc cách mạng trong văn chương, để tạo ra một
bước ngoặt. Và ông cũng thừa biết rằng mình được tiếp nhận như thế nào. Đằng
sau câu nói nhũn nhặn “có lẽ nó (tức cuốn Tố Tâm – VTN) ra đời vào lúc
người mình đang chờ một tiểu thuyết như thế” là một khẳng định kín đáo: tác phẩm
của ông đã vượt ra khỏi phạm vi cá nhân để trở thành một hiện tượng có tầm vóc
xã hội.


Ấy vậy
mà khi nghe Lê Thanh hỏi tại sao, sau Tố Tâm, ông không viết nữa, Hoàng
Ngọc Phách đã thực thà thú nhận: “ở trường ra, đi làm ít thì giờ quá” “Vả chăng
sức yếu, làm việc thường đã thấy mệt, nên cũng nản” (tất cả những đoạn vừa dẫn
đều được Lê Thanh ghi lại trong Cuộc phỏng vấn các nhà văn - 1943).


Dưới
con mắt của con người bây giờ thì ở chỗ này, Hoàng Ngọc Phách tỏ ra hơi bệt.
Như là ông có phần cầu an, khiếp nhược (!). Ông không đủ nghị lực để vượt lên
khỏi mọi khó khăn hàng ngày. Mà ông cũng không đủ ý chí để khai thác cái ưu thế
sẵn có (!).


Chỉ có
điều thú vị là chính cái sự không may ấy của Song An lại khiến cho hình ảnh của
ông hiện ra trong tâm trí các thế hệ sau với những nét gãy gọn, không loè nhoè,
lại càng không phải trừ bì bớt xén.


*


Nói
theo ngôn ngữ thể thao, so với các nhà văn bây giờ, lúc xuất phát, Hoàng Ngọc
Phách tự đặt cho mình một mục đích lớn hơn, ông đi xa hơn, mà lúc tiếp đất
(tức trong việc chia tay với nghề văn) ông cũng tỏ ra dứt khoát và gọn ghẽ hơn.


Ở nhiều
nước trên thế giới thỉnh thoảng lại thấy báo chí trịnh trọng đưa tin rằng một số
nghệ sĩ biểu diễn hay một ngôi sao thể thao nào đó vừa tuyên bố giã từ cái nghề
làm họ nổi tiếng.


Chẳng
phải là họ bị ai sa thải hay hất ra đường.


Đây là
việc họ tự nguyện.


Ngay
sau khi lên đến đỉnh cao của tài năng, họ cảm thấy nên dừng lại.


Bởi họ
không muốn hình ảnh của mình trở nên tầm thường thảm hại, ngay trước mắt công
chúng.


Việc
Hoàng Ngọc Phách sớm từ giã nghề viết tiểu thuyết tuy lý do hơi khác, song hiệu
quả cuối cùng thì cũng có gì na ná như thế.


*


Trong một
thiên truyện mang tên Ngôi nhà có căn gác nhỏ, văn hào Nga Tchékhov từng
mượn lời nhân vật để ghi nhận cái cảm giác đáng buồn sau đây:


Một
cánh đồng cỏ cháy khô chạy dài, đơn điệu và hoang vu như sa mạc, chắc cũng
không làm người ta thấy tẻ nhạt, chán chường, như một người ngồi đó, nói năng uể
oải và không biết bao giờ mới chịu bỏ đi”.


Một ý
nghĩ như vậy, dưới con mắt một số người, có thể bị xem như độc ác, khinh bạc.
Con người bao giờ cũng đáng quý. Sao lại nỡ bảo là sự có mặt của con người,  tiếng nói của họ, gợi ra cảm giác tẻ nhạt,
chán chường kinh khủng?


Nhưng
nay là thời mà mọi tiếng nói đã có dịp cất lên, mọi hoạt động được bộc lộ, đến
mức người ta trở nên khao khát sự tĩnh lặng, sự thanh sạch hơn bao giờ hết. Các
nhà sinh học hiện đại đã thử nghiên cứu về tiếng ồn để rồi kết luận rằng tiếng ồn
là có hại cho sự sống, bao gồm từ sự nảy nở của một hạt thóc, tới sự trưởng
thành của một con thú nhỏ.


Trong
hoàn cảnh ấy mà xét, một câu nói như của Tchékhov vừa dẫn là một ý nghĩ thành
thật, có tính tới những tế nhị trong sự giao tiếp giữa người với người, do đó
có thể bảo là một ý nghĩ nhân hậu.


Bởi lẽ,
văn chương cũng là một cách người ta trò chuyện với nhau nên ở đây, nương tựa
vào Tchékhov, chúng tôi mới nhắc lại trường hợp của Hoàng Ngọc Phách, nhất là
cách “tiếp đất” nhẹ nhàng của ông. Làm được như ông ư? Với người đã có một Tố
Tâm
của mình cũng khó mà với người chưa có một Tố Tâm  của mình lại càng là chuyện khó.


Nhưng
giữa cuộc đời mải miết hiện nay, có lẽ nên thỉnh thoảng nghĩ đến ông, ít ra là
để biết rằng bên cạnh cách sống, cách làm việc, cách nghĩ của chúng ta, trong
văn chương còn có thể có những cách tồn tại khác hẳn.







Bài tiếp:
Tuổi già với các nhà văn thời nay