Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

Thanh Tịnh, cuộc đời ngậm ngải tìm trầm

Năm sớm năm muộn xê xích ít chút nhưng nói chung hàng năm cứ đến khoảng cuối tháng mười một, đầu tháng chạp dương lịch, khi những chiếc lá bàng chuyển dần từ màu xanh sang màu đồng điếu, thời tiết bắt đầu ngả hẳn sang mùa đông, trời đất thấm lạnh đôi khi có thể giá rét thấu xương - thứ rét ngọt như người ta vẫn nói - thì cũng là lúc dân làm báo Hà Nội chúng tôi bắt tay vào một công việc thuộc loại vất vả trong năm là chuẩn bị những số báo tết.





Đời làm báo những năm chống Mỹ, dù không tất bật và lúc nào cũng bị ám ảnh bởi một cuộc cạnh tranh sôi động như thời kinh tế thị trường hiện nay, song so với nhiều nghề khác trong guồng máy làm các ấn phẩm có liên quan đến chữ nghĩa, thì cũng đã là bận rộn hơn hẳn. Lo làm dâu thiên hạ mà! Tháng nào tuần nào cũng phải tự trình diện trước dư luận và cấp trên tất cả phong độ của một kẻ đứng đắn và thành thạo trong làm nghề, kể cũng đã mệt lắm chứ. Nữa đây lại là báo tết!

Ở tạp chí Văn nghệ Quân đội nơi tôi công tác những năm ấy, có lệ mỗi lần Tết đến, mọi phóng viên trong toà soạn phải góp một bài để số báo có chất lượng. Thơ thẩn còn không ngại, chứ đến truyện ngắn và các mục râu ria như giai thoại, thơ vui, câu đố, cùng nhiều thể tài gọi là tạp nhạp khác, thì quả thật viết đã khó, mà chạy ra bài lấp đầy các số báo cũng không dễ.

Hình như hồi ấy, chúng tôi thường bận tâm vì những suy nghĩ nghiêm trang, nên tay nghề xoàng xĩnh và không biết làm hàng như về sau này! Bởi vậy vừa dọn dẹp bài vở cho số tết, vừa nhăn nhó và cứ nghĩ đến việc phải vẽ vời ra cho được dăm ba bài chọc cười mọi người, đã thấy lúng túng, bụng bảo dạ mình thì làm cho ai cười được, vì có ai làm cho mình cười được đâu!

Những lúc ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu thường nhìn cánh trực biên tập (tức là đang lo dựng các số báo) một cách thương hại, và tủm tỉm:

- Trông kia kìa, chắc cụ Thanh Tịnh đã viết được vài bài rồi, giờ lại đang viết tiếp đấy. Tết năm ngoái, đọc sơ sơ các báo, mình đếm chắc chưa đầy đủ, mà đã có đến chục bài ký tên Thanh Tịnh... Ở nhà này, về khoản làm báo, cánh cầm bút lớp sau cứ gọi là xách dép cho cụ Tịnh cũng không đáng!

Cố nhiên là Nguyễn Minh Châu không nói oan cho Thanh Tịnh chút nào.

Đóng góp của ông cho các số báo tết làm cho chúng tôi ngạc nhiên, vì như bắt gặp một Thanh Tịnh khác so với con người chúng tôi vẫn gặp.

Có cảm thưởng như sau một năm dông dài, ông chợt nhớ ra phải làm việc nào đó để bù lại tháng ngày đã mất. Và mỗi lần thấy ông vừa thở phì phì, vừa bước những bước nặng nề đi lại trong phòng để ngẫm nghĩ, rồi thỉnh thoảng lại quay vào bàn ghi ghi chép chép, rồi hào hứng cười thầm như tự thưởng cho những ý nghĩ hóm hỉnh của mình thì chúng tôi chỉ còn có cách bảo nhau rằng - hẳn ngày xưa, một ông đồ già lọ mọ lục lại đống bồ cũ, lấy ra mấy thỏi mực, mấy tờ giấy hồng điều, thử lại vài cây bút mốc meo bấy lâu xếp xó trước khi ra phố bò toài trên chiếu viết thuê các loại câu đối tết, chắc cũng có cái vẻ mải miết tương tự.



Từ những ngày làm báo Tết ấy, tôi thường vân vi nghĩ rộng ra cả cuộc đời Thanh Tịnh để hiểu về một cách tồn tại độc đáo trong văn học.

Cuộc sống nhân loại là một sự phân công tự nhiên, song bao giờ cũng có. Và ngay trong phạm vi hẹp là từng nghề thôi, thì cũng đã có sự phân công đôi khi rất ngẫu nhiên ấy. Có người đóng góp cho cuộc đời này những chủ lực như gạo thịt nuôi sống người ta. Lại có những người chỉ như trái ớt quả chanh, thêm thắt tô điểm bên mâm cơm, không có không chết ai nhưng sự thực là thiếu đi, cũng dễ làm cho đời sống mất hết ý vị.

Nói thế này không rõ vong linh Thanh Tịnh ở dưới suối vàng có giận không, chứ quả thật, sự tồn tại của Thanh Tịnh thời tiền chiến theo tôi hiểu là thuộc cái dạng một sự thêm thắt không thể thiếu ấy.



Đã có lúc ông làm nghề đạc điền. Đã có lúc ông dạy học. Nhưng hình như hồi tiền chiến cái nghề ông làm lâu nhất, lại là nghề hướng dẫn du lịch, một thứ công việc lang thang đây đó, góp chuyện với mọi người, làm cho mọi người vui bằng những câu chuyện nhỏ của mình. Và cái thú của nghề này chính là ở biên độ dao động rất rộng của nó. Tán hão cho vui cũng được. Mà dày công nghiên cứu để mang lại kiến thức cho mọi người thì tâm sức bỏ ra mấy cũng chưa đủ.



Đến như đóng góp của Thanh Tịnh trong văn học - một tập truyện ngắn một ít bài thơ, tất cả đều có cái giọng bùi ngùi, và càng bùi ngùi thêm vì loanh quanh toàn kể về những con người hiền lành song bất hạnh - sự đóng góp ấy cũng chỉ là một sự thêm thắt nếu người ta tính đến số lượng ít ỏi của nó.

Có điều, nhờ sự thành thật, và cả cái vẻ dịu dàng nhỏ nhẻ, không giống một ai mà rồi những trang văn chương ấy sẽ tồn tại trong tâm trí nhiều thế hệ. Sau khi đã đọc bao nhiêu ý tưởng quyết liệt nhất của Nhất Linh và Vũ Trọng Phụng, sau khi đã biết đến cái đậm đà duyên dáng của tiểu thuyết Khái Hưng, cũng như sau khi nghe tiếng nói thâm trầm và điềm đạm của Thạch Lam, người ta vẫn có những lý do riêng, để thỉnh thoảng tìm đến với văn Thanh Tịnh.



Đời xếp anh tôi với Thạch Lam

Ngồi chung một chiếu hội văn đàn

Chao ôi! Chiếu đã hai lần lạnh

Còn lại mình tôi vớí thế gian




Hồ Dzếnh đã viết như thế khi Thanh Tịnh qua đời. Đọc mấy câu thơ người ta cảm nghe được một cái gì giống như lời an ủi về tình thế “cùng một lứa bên trời lận đận” của các ông, những ngòi bút không thuộc dòng chủ lưu, nhưng lại làm cho không ai quên nổi.



Trong một hồi ký về quá trình đi theo kháng chiến, Thanh Tịnh kể: thực ra, hồi ấy (tức là cuối 1946) ông chỉ tính ra dự Đại hội văn hoá toàn quốc.

Chẳng qua ngày họp kíp quá, mà tiếng súng kháng chiến ở Hà Nội diễn ra nhanh quá: vốn tính đận đà ông không quay về kịp, nên mới có một sự nhập cuộc như chúng ta đã thấy, tức là mặc dù quê ở Huế, song Thanh Tịnh lại theo đoàn người khổng lồ của Hà Nội lên Việt Bắc, rồi có mặt trong các hoạt động kháng chiến tám năm liên tục.

Nhưng sự nhập cuộc này - một sự nhập cuộc đàng hoàng, bởi chính thức mà nói, ông là một chiến sĩ quân đội - vẫn có cái vẻ riêng rất Thanh Tịnh của nó.

Thời gian đầu hoạt động văn nghệ trong các lực lượng vũ trang còn đang lẻ tẻ tự phát và lẫn vào các hoạt động khác.

Ví dụ, nhân có một đoàn tuyên truyền chính sách, hay một đoàn kiểm tra đi các địa phương các đơn vị, ở trên mới ghép thêm vào một vài chiến sĩ văn nghệ, để gây không khí.

Nhưng ai ngại không biết, chứ Thanh Tịnh không ngại. Ông thích ứng ngay được với lối hoạt động nhỏ lẻ ấy. Tới đâu ông cũng nhanh chóng thâm nhập để biến thành người trong cuộc, rồi xem có gì đáng biểu dương thì làm thơ biểu dương, hoặc có gì đáng phê phán thì viết bài phê phán.

Thứ thơ dễ hiểu với mọi người ấy lại được mang “sân khấu hoá” tức không bắt người ta phải đọc thầm, mà là chuyển thành cảnh diễn, nên thông thường là được quần chúng tán thưởng. Bắt đầu ra đời một thể tài gắn với cái tên Thanh Tịnh hồi kháng chiến chống Pháp: thể độc tấu.

Và cứ thế, cứ với độc tấu, Thanh Tịnh như một người du ca, có mặt ở nhiều địa điểm của căn cứ địa Việt Bắc.

Qua năm 1951, trong khuôn khổ của việc sắp xếp lại tổ chức nói chung, Thanh Tịnh nghe một cán bộ chính trị khuyên “Nên về lại quê hương”, thế là ông đi bộ trở vào vùng trong. Nhưng đến Nghệ An, biết vùng tự do Bình Trị Thiên chật hẹp, không có đất hoạt động, ông liền ở lại với Chi hội văn nghệ Khu Bốn. Bên cạnh Hải Triều, Hoàng Trung Thông, Bùi Hiển, Chế Lan Viên... ông có làm thơ viết báo, nhưng chủ yếu là phụ trách văn công.

Và đây một đợt công tác độc đáo: ấy là khi hoà bình mới lập lại 1954, ông được giao phụ trách một đoàn xẩm, gồm 23 anh chị em, phần lớn là mắt kém, đi về hướng Bùi Chu Phát Diệm, lấy lời ca tiếng hát dân gian để động viên đồng bào đừng nghe theo những lời dụ dỗ di cư của kẻ địch mà hãy ở lại với quê hương.



Không biết ai đã có sáng kiến đặt Thanh Tịnh vào việc ấy?

Song quả thực, đấy là một trong những lần tài năng của Thanh Tịnh được sử dụng một cách đắc địa.



Thanh Tịnh là thế, là cuốn theo chiều gió, là ngọn cỏ gió đùa, là nương theo sự xô đẩy của hoàn cảnh mà tìm lấy tính chủ động, ở đâu thì cũng giữ lấy vai nghệ sĩ của mình, và hình như càng gặp những điều kiện sống khó khăn, không ổn định ông càng trở nên sinh động tự nhiên và nổi bật lên với khả năng thích ứng. Ngược lại sẽ hiện ra sẽ sống khó khăn thậm chí ông yếu đuối, lạc lõng lúng túng trong những hoàn cảnh ổn định, mọi thứ sắp xếp đâu vào đấy.



Sở dĩ tôi nói vậy, vì nghĩ đến hơn ba chục năm cuối đời của Thanh Tịnh bắt đầu kể từ 1954 khi ông nhận công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân đội, rồi từ đó, về hưu.



Bề ngoài mà xét, thì sau hơn chục năm kháng chiến, làm người lính từ địa phương đến chủ lực, khi ở Việt Bắc, khi vào Khu Bốn, nay ông mới có một đơn vị công tác chuyên sâu, một nơi ở ổn định. Hơn thế nữa, từ nay, ông được làm cái nghề mà ông yêu thích, và đã tự nguyện theo đuổi, là viết văn viết báo, hỏi còn gì lý tưởng hơn nữa?

Song sự thực mọi chuyện không suôn sẻ như thế.

Những người quen biết, khi viết về tuổi già Thanh Tịnh, thường tả căn phòng của ông trong ngôi nhà số 4, ở đó rất nhiều đồ vật lịch sử “cái đĩa thời Lê, viên gạch thời Lý”, ngoài ra là ngổn ngang những vật kỷ niệm “một mảnh máy bay B.52, viên đạn ở chiến trường Quảng Trị, một con vịt nhựa sứt mẻ nhặt được sau một trận bom...” Và có người còn bảo là trong hoàn cảnh bấy giờ, Thanh Tịnh đã khéo tổ chức một cuộc sống riêng rất hợp lý. Có điều đấy là một cách an ủi cho người đau khổ đỡ tủi.

Nên biết là ngay từ sau 1954, Văn nghệ Quân đội là một cơ quan rất được ưu đãi, anh em cán bộ chiến sĩ tuy đang tại ngũ, nhưng không phải lúc nào cũng bắt buộc mặc quân phục, và giờ giấc cũng không chặt chẽ như các đơn vị hành chính khác.

Chỉ riêng một việc cơ quan đặt ở ngoài thành lại không có trạm gác đi về thoải mái, đã là một ân sủng quá sức chờ đợi!

Là những người lính, nhưng hầu hết cán bộ trong cơ quan có gia đình ở Hà Nội, và sau một ít giờ sinh hoạt chung, ai về nhà nấy, thậm chí viết lách cũng có thể ngồi nhà, chỗ ngồi viết được cơ quan bố trí có để mốc ra đấy, cũng chẳng ai có ý kiến.



Chính trong không khí đầm ấm đó mà sự cô độc của Thanh Tịnh càng nổi lên rõ rệt.

Vào những buổi tối, cả ngôi nhà hai tầng thâm nghiêm sang trọng đó vắng lặng chỉ có Thanh Tịnh, với một hai đồng chí chiến sĩ khác làm công tác phục vụ ở lại.

Sau những bữa cơm chiều tẻ nhạt, có đi đâu một lát thì cuối cùng ông cũng phải trở về với dãy phố chỉ có hàng sấu lá reo, với cái cầu thang mênh mông mà bóng ông không bao giờ lấp kín.

Trong khi đó, không cần tưởng tượng phong phú gì lắm, cũng có thể hình dung ra cảnh các đồng nghiệp của mình đang vợ con ríu rít như thế nào - tất cả những chuyện này, đối với Thanh Tịnh lặp đi lặp lại hàng ngày, và một tâm hồn nhạy cảm như ông làm sao không cảm thấy xót xa cho được?

Chẳng ai có lỗi trong nỗi bất hạnh này của Thanh Tịnh cả - chẳng qua đất nước chia cắt, ông lập gia đình sớm, mà giờ vợ con lại ở tận trong kia, trong khi bọn chúng tôi trẻ hơn, bấy giờ mới bén mùi hạnh phúc riêng tư, nên tự nhiên là có cuộc sống khác hẳn ông như vậy.

Tuy nhiên sáng sáng, nỗi hào hứng của bọn tôi khi được bắt tay vào một ngày mới, đến với cơ quan với bao náo nức, quả thực là có xẹp đi ít nhiều, khi chợt thấy người đồng nghiệp đồng đội già của mình lầm lũi xách một xô nước, từ bể chứa dưới nhà lên gác hai. Chính chúng tôi cũng muốn lẩn tránh ông, chứ không phải riêng ông muốn tránh chúng tôi. Lấy đâu ra lời lẽ, để ngày nào cũng an ủi nhau, và an ủi làm sao nổi - chúng tôi tự nhủ.

Chỉ hoạ hoằn lắm, có đợt cả loạt anh em cơ quan cùng đi công tác, những lần ấy, mọi người như đều bình đẳng với nhau trong sự xa nhà của mình, và những buổi tối, ở nhà khách tỉnh ủy Hà Giang, hay cơ quan Hội văn nghệ Tuyên Quang gì đó, chúng tôi cùng quây quần nghe chuyện Thanh Tịnh - chỉ lúc bấy giờ, cái con người lớn tuổi nhất cơ quan mới có sự hào hứng, sự thích thảng mà ở Hà Nội, ông không bao giờ có.



Về lý thuyết mà xét, thì sự cô đơn có thể là điều kiện làm việc lý tưởng cho những ai có niềm say mê lớn. Nhưng khốn nỗi, quả thật đấy là chuyện lý thuyết, còn trong thực tế những người cầm bút ở ta hiện nay, một sự cân bằng trong tình cảm, lại là một bảo đảm tự nhiên cho sáng tác và nghĩ tới một người xa gia đình như Thanh Tịnh ai cũng hiểu ngay là “nhiều khi rỗi rãi mà không biết làm gì”. Chẳng những thế, lại phải biết thêm là sinh hoạt văn học từ sau 1954, nhất là từ 1958-60 trở đi, rồi trong chiến tranh, có một vẻ tấp nập riêng chỉ nó mới có. Các nhà văn Nguyễn Khải, Hữu Mai, Hồ Phương, Hải Hồ, Nguyễn Trọng Oánh, lúc ấy mới trên 30, đi khoẻ, viết khoẻ, tháng trước vừa theo đơn vị này đi tiễu phỉ ở Hà Giang, về viết một hai tuần nộp bài cho cơ quan xong, tháng sau lại có thể theo một đơn vị khác làm kinh tế, và trở về, lại có bài ngay để nộp, cả toà soạn như một đàn ong cần cù, hàng ngày hàng giờ toả đi khắp nơi để viết, viết ngay về cái thực tế sôi động của miền Bắc lúc ấy.

Còn Thanh Tịnh của chúng tôi thì sao?

Ngoảnh đi ngoảnh lại tuổi 50 đã đến với ông từ lúc nào. Ông không thể xông xáo như mọi người, mà có lao đi khắp nơi, trở về, ông cũng không thể viết nhanh viết khoẻ như họ. Hơn thế nữa ở đây, không khỏi còn những phân cách trong thói quen, trong quan niệm. Một bên là lớp nhà văn mới trưởng thành từ kháng chiến, lòng đầy tự tin, và cái háo hức chủ yếu, là háo hức làm nên một nền văn học trước đây chưa từng có; còn bên kia là Thanh Tịnh dẫu sao cũng là còn hơi hướng tiền chiến, nghĩa là thuộc về một quá khứ người ta đang muốn chôn vùi. Và thứ văn chương như Quê mẹ, dẫu sao cũng là thứ văn hiu hắt buồn tẻ của một thời đã xa lắm rồi, một người đã viết nên thứ văn như thế, làm sao có thể bắt ngay vào cái nhịp sống mới.

Tuy không ai nói ra, nhưng hồi ấy, hầu như tất cả nghĩ thế.

Mỗi lần bàn về Thanh Tịnh, thường mọi người thầm bảo nhau: Thôi thì cứ để “cụ” tuỳ nghi viết gì thì viết, còn phần công việc chủ yếu, sẽ phải là do lớp trẻ gánh vác.



Nhưng khi đã nghĩ như vậy, tức là mọi người không còn coi Thanh Tịnh như một chiến sĩ bình đẳng với mình.

Ông đã sớm trở thành một thứ cựu chiến binh ngay trong thời gian tại ngũ.

Có cái rỗi rãi của người được chiều.

Có cái tuỳ nghi của người không bị ràng buộc.

Rỗi rãi tùy nghi đồng nghĩa với lạc lõng.

Tiếng thở dài hàng ngày của ông - ông tập thở theo lối dưỡng sinh - vẫn cất lên đều đều khi bước chân nặng nề đưa ông từ gác xuống nhà, từ nhà lên gác, song đáp lại tiếng ngân vang của nó, chỉ có một sự im lặng buồn tẻ.

Kể ra, những người chung quanh đã cố giữ gìn kín đáo để sự xa cách trong lối sống của ông khỏi trở thành lộ liễu. Là những cây bút đầy tài năng và hiểu biết, những Từ Bích Hoàng, Vũ Cao, Hữu Mai, Hồ Phương, Nguyễn Khải... đối với Thanh Tịnh vẫn có cái tình riêng. “Ông viết văn từ khi ta còn học tiểu học”, “và bây giờ trong lúc ta vợ con đầm ấm, thì ông cô độc cô quả, xa nhà xa vợ con” - hầu như bất cứ ai cũng có lần tự nhủ vậy, để đối với Thanh Tịnh thật gượng nhẹ.

Riêng Nguyễn Minh Châu lại có cái gì hơn thế. Hình như với cái cốt cách riêng của mình, Nguyễn Minh Châu cứ có sự bùi ngùi thương cảm riêng với các bậc đàn anh tiền chiến và thường xuyên dậy lên trong ông một tình cảm giống như sự biết ơn chân thành. Một lần nào đó, viết xong một truyện ngắn, bên cạnh nhan đề Những lá thư vui, Nguyễn Minh Châu trang trọng chua thêm mấy dòng “Kính tặng bác Thanh Tịnh” (như ngày xưa, Thanh Tịnh đã viết Con so về nhà mẹ để “Kính tặng hương hồn anh Thạch Lam”). Lại một lần khác, sau nhiều dịp trò chuyện với Thanh Tịnh, Nguyễn Minh Châu đóng vai nhà báo, viết hẳn một bài phỏng vấn giúp cho Thanh Tịnh giãi bày đủ điều với mọi người.

Nhưng cuộc đời không phải chỉ có những cái đó.

Cuộc đời trước tiên là một nhịp sống bình thường. Hàng ngày cơ quan chúng tôi túm tụm, người đi thực tế về, người mới đọc được quyển sách hay, người có cái tin sốt dẻo, cứ gặp nhau là dính với nhau, tiếng cười vang lên trong các gian phòng đóng kín, khiến người qua lại phải giật mình.

Trong những hội vui đó, không có Thanh Tịnh.



Tôi nghĩ rằng một người nhạy cảm như tác giả Quê mẹ rất biết tình thế của mình.

Ông không chống chọi nổi với thời gian, song ông hiểu.

Bằng cái từng trải của một con người nhiều năm sống trong lang bạt, không phải ông không thấy mọi người có lý.

Thành thử, ông cũng không buồn vất vả xoay xoả viết lấy được - một việc có lẽ ông cho là vô ích.

Mà cùng với những bế tắc trong hoàn cảnh riêng, ông sống như sống cho xong, buông thả, vui chơi qua ngày, đến đâu thì đến.



Những ấn tượng trên đến với tôi ngay từ những ngày mới đặt chân về công tác ở tạp chí Văn nghệ Quân đội, tức khoảng 1968.

Ở vào cái tuổi chưa đầy sáu mươi mà Thanh Tịnh những năm đó trông đã già lắm, già hơn tuổi rất nhiều. Hồi ấy, một tờ báo ra hàng tháng như chúng tôi chưa có ô tô riêng, bởi vậy, trừ những trường hợp đi các tỉnh xa, xin được xe Tổng cục, còn đi đâu loanh quanh Hà Nội, thì các thủ trưởng tới các nhân vật trụ cột trong cơ quan "vua biết tên chúa biết mặt" cũng cứ xe đạp cá nhân mà đạp.

Thanh Tịnh - người cao tuổi nhất cơ quan - cũng không ra khỏi thông lệ đó.

Với một xe đạp cũ, ông tự mình có mặt ở khắp nơi, buổi họp này, dịp vui kia, và mặc dù đi bên cạnh mọi người, song cái dáng cao lớn trên cái xe loại vành 680 lại cứ làm cho ông tách hẳn ra.



Nhưng muốn biết Thanh Tịnh đơn độc thế nào, phải nhìn những lúc ông đi bộ. Trên đường Phan Đình Phùng, dưới những hàng sấu cũng già cả mệt mỏi, ông bước đi như không thể dừng lại nên phải bước, khuôn mặt đăm chiêu, dáng điệu đờ đẫn. Không trù tính định liệu, không ham muốn, ông nhìn thẳng về phía trước mà hoá ra chẳng nhìn gì cả. Đến cả bước chân của ông cũng không ai nghe tiếng nữa. Chỉ có tiếng thở dài của ông là có thật.



Trong các hồi ký, nhiều người đã nói về khả năng hài hước của Thanh Tịnh. Tất cả đều nói đúng, và chỉ quên một điều: đấy là cái hài hước của một người đã quá buồn! Con người vốn được nuông chiều, mà nay phải sống xa gia đình. Con người vốn ham chơi, mà nay phải sống trong không khí khổ hạnh. Trước khi chọc ghẹo thiên hạ, ông cần làm cho mình vui cái đã. Ông cười, cũng y như ông làm báo tết ở trên tôi nói, tất cả là để tạo nên một chút vang động giữa cái vắng lặng mà ông đã triền miên phải chịu.



Nhìn ông vọc vạch những bài báo tết - mấy đoạn ca dao nôm na dễ hiểu, mấy mẩu đố vui, cũng như nhìn ông phát biểu giữa đám đông -, đôi khi tôi nhớ tới một hình ảnh mà những ai ở Hà Nội từ 1960 về trước đều biết. Đó là những ông già ngồi nặn những Tôn Ngộ Không, Quan Công, Trương Phi, bằng các loại bột xanh đỏ cắm trên một chiếc tăm tre, bán cho bọn trẻ nhỏ.

Những ông già ấy làm vui cho mọi người, cốt để khuây khỏa nỗi buồn trước sự xô đẩy của thời gian, và Thanh Tịnh của chúng tôi cũng thế.

Tôi nhớ những ngày mùa rét, Thanh Tịnh hay bận ra ngoài một cái áo dạ màu cổ vịt, một màu rất chua, và chói hẳn lên giữa đám người nâu sồng hoặc toàn quần áo màu xám chung quanh. Đấy cũng là một cách để tỏ rõ cái khác biệt với chung quanh chăng? Cũng có thể Thanh Tịnh không cố ý, nhưng cái cách của ông cứ xui người chung quanh nghĩ thế. Vả chăng, cái con người thật của chính mình, thì mỗi người làm sao giấu được!

Một cảm tưởng chung chúng tôi vẫn hay trao đổi với nhau: Ngoài mùi cao Sao vàng hắc hắc - cái mùi phổ biến của những người già - riêng ở Thanh Tịnh tuổi sáu mươi hồi ấy lại còn thường hay bốc lên mùi nước hoa. Chắc chắn đó là thứ nước hoa thật rẻ, anh em nhà văn đi nước ngoài (chủ yếu hồi ấy là đi Liên Xô) gửi tặng. Thứ xa xỉ phẩm này, cũng như màu áo cổ vịt, khiến cho Thanh Tịnh nổi bật lên giữa những người khác. Trước mặt Thanh Tịnh nhiều người khen lấy lòng: “Anh Tịnh vẫn galant quá”, nhưng sau lưng, tôi biết người ta vẫn thầm thì với nhau: cụ phải làm thế vì già rồi, lại dân nghiện cũ, lâu không tắm, không đổ nước hoa lên quần áo thì còn dám đi đâu nữa!



Phần lớn các thiên truyện Thanh Tịnh viết trong Quê mẹ là những truyện buồn.

Cô Duyên trong Bên con đường sắt chịu sự đàm tiếu của mọi người mà đâu có hạnh phúc. Cô Sương trong Tình thư không nuôi nổi mối tình thuần hậu qua những bức thư. Cô Hoa trong Con so về nhà mẹ thường xuyên sống trong cái tâm trạng chán nản rồi ao ước hão. Ở nơi này thì bảo rằng ở nơi kia khá hơn.

Cho đến cô Thảo trong Quê mẹ cũng phải nhắm mắt nhắm mũi mà sống, luôn luôn ra vẻ rằng mọi người trong gia đình mình quý mến nhau lắm.

Nhưng có lẽ thiên truyện gần với con người Thanh Tịnh về sau, mà cũng là đậm chất Huế của quê hương ông là truyện Con ông Hoàng. Trước cảnh gia đình túng đói, ông Hậu, con ông Hoàng vẫn phải cố giữ lấy chút tiếng hão.

Tương tự như ông Hậu con ông Hoàng, Thanh Tịnh của chúng tôi cũng không bao giờ có thể sống hết cái con người buồn rầu đau đớn của mình. Ông phải giữ tiếng cho mình và cho mọi nguời, vì cái tiếng của ông đã quá lớn. Chung quanh và chính ông đã ép ông thành một thứ phượng hoàng nhồi rơm nhồi trấu rồi treo trên tường, ông phải giữ lấy cái vai đã có.



Lại nhớ cái phòng bảo tàng những thứ cổ vật mà Thanh Tịnh xây dựng cho mình, trên cái phòng số 14 gác 2 nhà số 4 Lý Nam Đế những năm ấy. Nghèo thế, Thanh Tịnh của chúng tôi lấy đâu ra tiền để mua cổ vật? Mà cũng buồn thế, cô độc thế, một người ít nghị lực như Thanh Tịnh lấy đâu sức lực để mang lại cho bộ sưu tầm của mình một vẻ hoàn thiện dù là chỉ trên phương diện công phu thuần túy? Chẳng qua buồn tình quá, ông nhặt nhạnh một ít đồ cũ, xếp cho ra bộ, trong lúc không ai biết chơi thì cách chơi của ông đã là độc đáo, thế thôi.

Song giá kể chỉ dừng lại ở chỗ ấy, thì Thanh Tịnh lại đi hơi quá: Từ lúc nào không biết, một cách tự nhiên, ông hay kể lể về cái bộ sưu tầm của mình. Toàn đám tinh ma, cố nhiên là chúng tôi có biết cái sự tô vẽ của Thanh Tịnh. Nhưng sự lịch sự tối thiểu không cho phép ai nói chuyện đó ra trước mặt ông làm gì.

Rút cuộc là một cuộc chung sống hoà bình, Thanh Tịnh cứ nhặt nhạnh và mang ra khoe, nghĩ chẳng ai tin thì cũng buồn quá, nên tự nhủ rằng biết đâu sự bày biện rất thành thực của mình vẫn có tác dụng. Còn chúng tôi thì lúc nghe ông nói, phải giữ bộ mặt nghiêm trang cho khỏi bật cười, và lâu dần, việc đó cũng chẳng khó khăn gì với chúng tôi, vì ra ngoài, chúng tôi lại giễu ông ngay lập tức.

Trò chơi hơi buồn!

Nhưng nó là trò chơi duy nhất một ông già tạo ra được cho mình, và cũng là trò chơi độc đáo, dù không được đẩy đến cùng. Nó không làm hại làm phiền ai cả. Nó có thể được chấp nhận, ngay cả lúc người ta quá bận rộn.



Không rõ bây giờ có ai đang làm việc cho những tập hồi ký viết về những năm chống Mỹ. Nhưng dăm bảy năm trở lại đây, có dịp sống với cái tốc độ chóng mặt và những chương trình quảng cáo gây ấn tượng đậm của kinh tế thị trường, lớp người cả một thời trai trẻ sống trong chiến tranh và bom đạn như bọn tôi càng hay nhớ về những năm ấy. Hà Nội trong chống Mỹ là một cái gì lạ lắm, không phải là một thủ đô hoà bình - tất nhiên rồi, nhưng một thủ đô của chiến tranh cũng không hẳn.

Tuy mấy năm 1966-67, thỉnh thoảng cũng có bom Mỹ bắn phá, nhưng với cái tính nông nổi của người Hà Nội thì không thấm thía gì hết. Rồi từ cuối 1968, mọi chuyện đâu đóng đấy, chúng tôi nhởn nhơ sống, trẻ con vẫn đi học, người lớn vẫn “tất cả cho sản xuất”, mà vẫn vui vầy sống đủ mọi hệ luỵ của kiếp người.

Ngoài kia là mặt trận, mọi người đều có con em mình ở ngoài ấy, và có thể mai kia đây, đến lượt mình đi, có sao!

Nhưng hôm nay, hãy cứ vui vẻ với cái hạnh phúc trần thế mà mình đang có.

Tôi đạp xe với bạn dong nhan các phố.

Anh nhâm nhi vại bia bên mấy củ lạc.

Anh kia nữa thành kính ngồi nghe một bài hát dân ca theo chương trình ca nhạc theo yêu cầu thính giả sáng chủ nhật của Đài tiếng nói Việt Nam.

Vào những ngày tết, bên cạnh bánh chưng xanh và những hộp mứt ọp ẹp cung cấp theo ô phiếu, thì lại vẫn còn những cành hoa đào Nhật Tân bán trên Hàng Lược, nó là một thứ xa xỉ được chiến tranh cho phép, bởi nó là dấu hiệu về một đời sống bình thường, mà mọi người thấy cần tỏ ra cho kẻ thù biết.

Có lẽ đời sống văn nghệ của chúng tôi mà được phát triển, thì lý do cũng tương tự thế chăng, chỉ biết trông vào những số báo tết, cũng có chút tươi tỉnh lên thật.

Trên trang thơ của Văn Nghệ, Xuân Diệu cho đăng những bài thơ tình tha thiết và đôi khi hơi buồn nữa, mà có thể là ông làm đã từ lâu, nhưng chỉ vào các dịp Tết mới tìm thấy lý do công bố. Tế Hanh đứng tên sau các bài thơ viết về con.

Còn nhà hùng biện Chế Lan Viên thì trưng ra một nét mặt mới: thay cho các bài thơ chính trị, là thơ về hoa, về quả, hoặc thơ về... thơ.

Chính trên cái nền rộng rãi ấy mà Thanh Tịnh trong những dịp Tết trở lại với cái nghề cũ của mình là nghề làm báo, và đặt bên cạnh bọn ngọng nghịu chúng tôi, thì đấy vẫn là một tay nghề có hạng.

Hoàn cảnh những năm chiến tranh đã tập cho chúng tôi một thói quen là không sưu tầm gìn giữ gì hết, gia đình tôi cũng chật hẹp như mọi nhà, nên chả làm sao giữ được những số Văn nghệ Quân đội mà tôi đã góp phần làm trong hơn chục năm từ 1968 đến 1979 (và suốt thời gian ấy, mỗi tháng, tôi được phát hai số), nhưng mỗi lần có dịp thấy lại những số báo ấy, nhất là những số Tết dày dặn hơn một chút, màu sắc loè loẹt hơn một chút, thì tôi lại nhớ ngay đến Thanh Tịnh. Chút quà mọn là những số báo của chúng tôi, hình như là quá bé bỏng so với cái vóc vạc cao lớn của ông, nhưng ông đã đổ vào đấy tất cả tâm sức, và bên tai tôi lại vẳng lên tiếng nắc nỏm của Nguyễn Minh Châu:

- Trông kìa, cụ Tịnh chắc đã viết được hơn chục bài rồi... Ở nhà này, về khoản làm báo, cánh cầm bút lớp sau cứ gọi là xách dép cho cụ Tịnh cũng không đáng!



Đã in Cây bút đời người 2002 , và trên blog này ngày 11-12-2011

Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2014

Tội làm hư dân ( bản bổ sung thêm 724 chữ)



Một số trang mạng đồng nghiệp vừa giới thiệu lại bài viết này của tôi.

Để tiện cho bạn nào thấy cần, tôi xin tải lại nguyên văn bài in

trên trang của tôi ngày 28-1-2013
, có kèm thêm

một số ý mới bổ sung ở phần cuối mới viết 26-12-14)




Đại Đường Tây vực ký của nhà sư Huyền Trang từng được dịch ra tiếng Việt (NXB Phương Đông, 2007). Trong thiên bút ký này, Đường Tăng ghi lại ấn tượng sau khi đi qua 138 nước nằm giữa Trung Hoa và Ấn Độ (có thời gộp chung là Tây vực). Đoạn tổng thuật về địa khu Tốt Lợi kể “Người Tốt Lợi phong tục kiêu ngoa, chuyên môn lừa đảo, tham lam hám lợi, giữa cha con với nhau cũng tính toán hơn thua chẳng cần người tốt kẻ xấu, cứ nhiều tiền là được quý trọng… Cư dân một nửa làm ruộng, một nửa chuyên đi trục lợi ”.






Tôi ghi lại đoạn này bởi lẽ nó góp phần gạt đi trong đầu một phân vân khi nhận thức.

Từ nhỏ bọn tôi đã được học rằng chỉ có các cá nhân xấu, chứ nhân dân lao động nơi đâu cũng tốt. Hóa ra không phải vậy! Tùy hoàn cảnh mà con người biến đổi. Và là biến đổi trên diện rộng. Tục ngữ ta xưa cũng có câu “bạc như dân bất nhân như lính “. Đọc lại lịch sử thấy nhận xét chua chát đó không hoàn toàn sai.

Thế còn bây giờ ? Một lần, chập choạng tối, tôi đang đi trên đoạn đường gần ngã tư Hàng Chiếu – Đồng Xuân Hà Nội thì gặp mưa, đành tính chuyện lánh tạm vào một mái hiên. Bất ngờ nghe người ở trong nhà nói hắt ra:

-- Biến đi cho người ta còn bán hàng.

Trời ơi! Con người đô thị bây giờ càn rỡ và bất nhân ngoài sức tưởng tượng !

Ở các tỉnh xa, các vùng kinh tế, thì sự hư hỏng lại mang sắc thái khác. Có lần trên một tờ báo, đọc thấy tin ở huyện Tam Nông Đồng Tháp nhiều người lấn chiếm đất công rừng công, bất tuân pháp luật.

Lần khác xem ti vi, lại thấy dân một xã của Quảng Trạch Quảng Bình đua nhau chặt rừng phòng hộ ven biển bán cho tư thương, huyện xã đã tìm đủ cách ngăn chặn nhưng không nổi.

Đủ chuyện đã xảy ra, dân ăn cướp, dân ăn cắp, dân ăn vạ, dân xà xẻo của công và tiếp tay cho kẻ xấu, dân làm hại lẫn nhau … thiên hình vạn trạng không xếp loại được.

Vấn đề còn lại chỉ là cắt nghĩa tại sao lại xảy ra cái chuyện chẳng ai muốn đó ?

Trở lại việc dân ở huyện Tam Nông Đồng Tháp nói trên. Đọc kỹ các bài viết liên quan thì thấy trước khi dân hư, có chuyện ông phó chủ tịch huyện phá rừng. Người dân chung quanh thấy ông cán bộ to hành xử như trên (chặt tràm đào ao làm thành lãnh địa riêng ), bảo nhau ùa vào làm bậy.

Đây cũng là diễn biến thấy ở nhiều nơi khác.

Trong phần lớn trường hợp, tình trạng dân hư liên quan tới hiện tượng nhức nhối là chuyện cán bộ kiếm chác vô nguyên tắc, tư lợi vô cảm, gộp chung là thoái hóa biến chất.

Đáng lẽ phải gương mẫu tuân thủ pháp luật thì họ lại tự đặt mình cao hơn luật, phá luật để trục lợi.

Trước mặt người dân lúc ấy, lý tưởng như bị xúc phạm. Người ta không thể thờ ơ và dễ bảo mãi. Về mặt triết học có thể bảo con người bắt đầu rơi vào hư vô. Chúa đã chết rồi ! Ai muốn làm gì thì làm ! Bởi cảm thấy trên đời này không còn cái gì là thiêng liêng, họ rơi vào liều lĩnh phá phách một cách hung hãn.

Những cái xấu sẵn có mà bấy lâu họ kìm nén, được lúc vùng lên quẫy lộn.

Tự cho phép mình hư!

Nhìn nhau để yên tâm mà hư!

Khuyến khích nhau hư thêm, càng đông người hư càng thích!

Sự bùng nổ lúc này là theo lối dây chuyền, không gì có thể giữ con người lại nữa.

Đó là phản ứng phổ biến sau cú hích của đám dân chi phụ mẫu (nói theo cách nói thẳng của ngày xưa) hoặc các vị công bộc (theo cách nói dối trắng trợn của thời nay).

Ta chưa có thói quen đánh giá bộ máy quan chức nên tưởng việc này là khó. Sự thực việc đánh giá này khá đơn giản. Muốn biết giới quan chức một địa phương ra sao, cứ xem dân ở đấy thì biết. Dân ngoan làm ăn tử tế tức là bộ máy làm việc tạm gọi là chấp nhận được, người ta còn tin. Còn dân hư, nhất định là những người quản lý họ có vấn đề, không tham nhũng thì cũng kém cỏi trong quản lý. Chỉ cần chịu tìm sẽ thấy ai có lỗi.

Tòa án thường chỉ xét những tội cụ thể. Nhưng tôi tưởng tất cả các quan chức, một khi hư hỏng, ngoài hành vi phạm pháp, còn phải xét thêm một tội nữa: Tội ngấm ngầm thúc đẩy và dung túng dân làm bậy. Tội làm hư dân.

Nhà xuất bản Tri thức từng cho in một cuốn sách thuộc loại kinh điển. Đó là cuốn Chính thể đại diện của John Stuard Mill ( nguyên bản được viết từ năm 1861). Ở trang 82, tôi đọc được một câu đại ý như sau “ Người ta phán xét một chính thể thông qua tác động của nó lên con người. Cụ thể là có thể và nên xét xem nó tạo nên những công dân như thế nào, nó làm cho dân tốt lên hay xấu đi ”. Đúng là có liên quan tới vấn đề chúng ta đang bàn.





in lần đầu TBKTSG 15-5 2008,

in lại trong Những chấn thương tâm lý hiện đại 2009



Viết thêm 28-1-2013, và chữa lại đoạn cuối phần bổ sung này ngày 26-12-14



Muôn hình vạn trạng những đau khổ của người dân đang là câu chuyện đầu miệng ở xã hội VN hôm nay.

Những đau khổ này không phải từ đâu mang lại, cũng không phải là tội của thực dân đế quốc như các tài liệu chính trị vẫn rao giảng. Mà tất cả bắt đầu từ chính chúng ta, trong đó có những nguyên nhân sâu xa từ sự hư hỏng sự tha hóa của con người nói chung mà chúng tôi đã đề cập tới trong một số bài phiếm luận in gần đây.

Mục đích bài viết bạn đọc vừa đọc ở trên là tìm hiểu trách nhiệm của những người quản lý xã hội trong việc làm hư dân.

Người viết mới chỉ dừng lại ở tình trạng giới quan chức tham nhũng bất chấp luật lệ cho phép mình làm bậy, chính họ đầu têu cho người dân thường bắt chước theo.

Trong thực tế, có thể thấy cách làm hư dân của bộ máy quan chức rất đa dạng. Cũng giống như việc cha mẹ quá chiều chuộng khiến con cái không nên người, chỉ cần nhà cầm quyền dễ dãi vô nguyên tắc bỏ mặc cho dân muốn làm gì thì làm thì cái việc có vẻ nhân nghĩa này đã là nguồn gốc dẫn tới sự hư hỏng của đám đông. Họ sẽ tùy tiện làm ăn gian dối, rồi lừa lọc nhau, ăn cắp ăn cướp của nhau, như chúng ta đang chứng kiến.

Mở rộng ra, cần nghiên cứu sự hình thành tầng lớp quan chức trong lịch sử và văn hóa quản lý xã hội ở ta trước nay ra sao.

Ví dụ, cần đi vào chi tiết việc quản lý các làng xã xưa, nơi đó bọn cường hào thao túng cuộc sống người dân và kìm hãm họ trong cảnh trì trệ.

Hoặc là theo dõi sự vận hành của bộ máy quyền lực những thời gần với xã hội hôm nay như xã hội thời Lê Trịnh ở Đàng Ngoài và các chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỷ XVII- XVIII.

Khi mà người ta làm kinh tế theo kinh nghiệm của những người chỉ quen chinh chiến và quản lý xã hội theo kiểu trại lính thì sự nghiêm túc chỉ là bề ngoài, bên trong là hỗn loạn thối nát.



Tôi muốn nói thêm đến tội làm hư dân của một hoạt động xã hội đặc thù: công việc của những người làm văn học nghệ thuật.

Vào các thế kỷ XVII-XVIII, văn nghệ vẫn là một thứ tiếng nói của nhân dân, dù chỉ là một thứ tiếng nói chuệch choạc.

Thời đó văn nghệ được dùng để nói lên nỗi đau khổ của nhân dân. Nó vẫn được xem là khá tỉnh táo.



Ngày nay, trong thể chế của chúng ta, một bộ phận chủ đạo trong giới văn nghệ không còn là tiếng nói của dân nữa, họ là một thành phần của giới quan liêu. Có thể chỉ là một cách tự phát - bí quá thì làm liều -, nhưng bộ phận văn nghệ này lại đang đi vào làm cái việc rất tội lỗi là kích động khuyến khích sự chơi bời - hưởng lạc - lười biếng - gian dối, tức sự hư hỏng của con người.

Làm thế để dân quên đi những vấn đề chủ yếu làm nên cuộc sống của họ.

Trong trường hợp này, trang sách viết ra - cũng như bài hát viết ra, vở kịch diễn ra, thước phim làm ra -- không còn đóng vai giáo hóa như thường thấy trong xã hội cũ, mà chính là lại mắc vào cái tội chúng ta đang nói — tội làm hư dân.



Khi con người đau khổ thì còn có cách tổ chức lại đời sống để họ biết làm biết nghĩ, biết rõ chính mình, và hướng phấn đấu của chính mình, nó là tiền đề để họ trở nên hoàn thiện, theo một nghĩa nào đó, trở nên hạnh phúc.

Nhưng khi con người đã hư hỏng mà không tự biết sự hư hỏng của mình, rồi lại được kẻ khác khuyến khích để hư hỏng thêm, thì thật hết đường cứu vãn.

Nhưng nhân dân đang không biết trông cậy vào ai! Lấy ai là người hướng dẫn bảo ban khuyên nhủ họ bây giờ?

Thứ Năm, 18 tháng 12, 2014

Nhân một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75


Một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75 vừa được
tổ chức ở bên Mỹ. Tôi hơi thất vọng vì ba lẽ:





1/ các đồng nghiệp của
tôi ở hải ngoại vẫn bị cảm xúc chi phối quá nặng. Bây giờ mà các anh vẫn nhắc
nhở đến những đánh giá bất công của mấy ông X, Y. Z., những ý kiến cực đoan tồn
tại từ đã trên dưới ba chục năm trước. Vào thời điểm này trong nước có mấy ai còn nghĩ
như thế?




Theo sự nhìn nhận của tôi,
thì hiện nay nghiên cứu văn học trong nước đang ở thế bế tắc đến cùng cực. Nhiều việc cần làm mà không ai đủ sức làm. Với
cả nền văn học Hà Nội từ sau 1945 cũng không ai có được phát hiện gì mới.


Chính
là lúc này, một số bạn trẻ rất có năng lực ở Hà Nội có, ở Sài Gòn Huế có, đang âm thầm hướng tới những Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Vũ
Khắc Khoan… để hy vọng qua kinh nghiệm của các nhà văn bậc thầy ấy, may ra hé lộ con đường đi tới của văn chương nước nhà. Sao các anh
không tính chuyện thảo luận cùng họ, cộng tác với họ?


Các anh than thở “Văn học miền Nam (VHMN) từ 54-75 là
một trong những nền văn học bất hạnh nhất trong lịch sử văn học Việt Nam” với
nghĩa nó bị cấm đoán, nó không được thu thập đầy đủ. Cái đó có, nhưng tình cảnh
đâu đến nỗi bi đát lắm, hiện nay nó đang được khôi phục dần dần.





Nếu muốn dùng chữ bất hạnh,
tôi nghĩ tới cả nền văn học dân tộc nói chung, bao gồm cả văn học miền Bắc. 


Nhưng hiểu theo nghĩa này, thì cứ gì văn học VN. Mà văn
học Trung Hoa lục địa cũng bất hạnh, văn học Nga xô viết cũng bất hạnh. 


Nay là
lúc chúng ta  cùng nên gạt những cảm xúc
bi lụy ấy đi.


 May mà những năm ấy, còn có văn học miền Nam!

 Nay là lúc chúng ta
phải nhìn về nó với niềm tự hào và gắng đi tìm ra những bài học của nó, để tiếp
tục làm văn học trong hoàn cảnh mới và giúp cho văn học trong nước cùng phát
triển.





2/ Xin phép nói một cảm
tưởng sau khi đọc các bài tham luận. Gạt đi mọi khách sáo,  tôi muốn được thẳng thắn mà nói rằng cách tôn
vinh VHMN của các anh rất nhiệt tình đấy, nhưng còn thiếu sức khai phá gợi mở.


 Theo tôi hiểu,
các phương pháp tiếp cận văn học trên thế giới hiện nay đủ mạnh để  phát huy hiệu quả cả với văn học các nước Đông Nam Á, các nước Ả Rập…(nói
chung là những nền văn học bên ngoài văn
học phương Tây). Lâu nay đọc các anh viết trên mạng,  các cuốn sách các anh mới  in, tôi 
biết rằng trong mấy chục năm qua, ở xứ người, các anh đã học hỏi được rất nhiều.


 Thế mà nhìn vào những nhận xét các anh nêu lên trong hội thảo này, tôi chưa thấy được cái mới đó -- các anh chưa mở ra được cái phương hướng mới đủ sức giúp bạn đọc hôm nay hiểu thêm về một nền văn học mà mọi người cùng yêu mến.







3/ Khi nói về văn học miền
Nam, lẽ tự nhiên người ta phải đả động đến văn học miền Bắc.


 Đã có lần, trong một
cuộc phỏng vấn của một đồng nghiệp, tôi nói rằng một trăm năm sau, khi nói tới
thế kỷ XX, người ta không bỏ được nền văn học miền Nam, cũng như không thể bỏ
được văn học miền Bắc.


 Dù phân lượng không đồng đều, song mỗi bên có đóng góp
riêng vào việc ghi lại đời sống tinh thần dân tộc, không bên nào thay thế được
bên nào. 


Đến hôm nay, tôi vẫn nghĩ thế, và tôi muốn các anh cùng chia sẻ. 


Làm
sao trong khi đề cao VHMN 54-75, các anh có thể sổ toẹt cái phần thành tựu
theo một cách riêng
 của văn học miền
Bắc trong thời gian đó.


 Tôi không nói tất cả, tôi chỉ nói rằng vượt lên trên một số đông tầm thường và xu thời, vẫn có những cây bút miền Bắc tin ở sứ mệnh cầm bút của mình.


 Ở những người này
có rất nhiều mâu thuẫn, cũng có lúc họ đã chùn tay, đã đầu hàng, nhưng rồi tiếp
sau đó, bên cạnh đó, lại vẫn giữ được cái phần lương tâm lương tri của một người viết văn chân chính. 


Nỗ lực đó của họ còn được ghi lại trong các trang sách. 


Đối lập và tuyệt đối
hóa những khác biệt văn học giữa hai miền chẳng những là bất cận nhân tình mà
còn là phản khoa học.


 Nó ngăn cản người ta đi dần tới một cách hiểu đúng đắn về
mỗi bên.


Chính
ra là trong sự phát triển của mình, văn học hai miền thời gian 1954-75 đã có sự
nhìn vào nhau, đối thoại ngấm ngầm với nhau.


Việc nghiên cứu trở lại cuộc đối thoại xảy ra trong những năm đó là một trong những  phương cách thiết yếu để đẩy tới cuộc đối thoại giữa văn học trong nước và văn học hải ngoại hôm nay.






Thứ Hai, 15 tháng 12, 2014

Sách cũ sách mới



Sự có mặt của các tác phẩm cổ điển

Trên các trang báo, thường người ta chỉ thấy những lời giới thiệu về sự có mặt của các tác phẩm mới in ở phương Tây, nhất là các tác phẩm được giải nọ giải kia. Khi đọc những bài ấy, tôi nhận ra một nỗi hào hứng ở nhiều người viết: với những cuốn sách mới toanh thế này, hình như về văn hóa và nói chung là về cách sống -- chúng ta đang nhịp bước cùng thế giới hiện đại bên Anh, bên Mỹ.



Qua báo Tuổi trẻ 27-10-14, lâu lắm tôi mới lại thấy một bài có cách suy nghĩ ngược lại, đó là trường hợp nhà văn Trầm Hương giới thiệu tiểu thuyết Một cuộc đời của G. de Maupassant.

Được nhấn mạnh rõ nhất trong bài báo này là sự khốn khó khôn lường trong việc vận dụng tình yêu, kể cả tình yêu của một bà mẹ với đứa con trai.

Câu hỏi đặt ra là cha mẹ yêu con sao cho đúng? Phải chăng trong tình mẫu tử, chúng ta không chỉ cần có tình cảm, sự hết lòng mà còn cần cả sự sáng suốt, trí tuệ?

Đi theo sự dắt dẫn của Trầm Hương trong bài Cảnh giác với bà mẹ "một cuộc đời”, do đó, người ta thấy ngày nay các tác phẩm cổ điển còn có thể mang lại cho chúng ta nhiều bài học.

Lại cũng có thể nói là nhiều lúc chúng ta cứ ảo tưởng mà bảo nhau rằng xã hội đã sang quá trình phát triển hiện đại, thật ra cuộc sống xã hội VN hôm nay chỉ đang là phiên bản nhòe nhoẹt của xã hội Âu Mỹ các thế kỷ XX, XIX…



Những bóng ma trên bãi tha ma của sách

Thỉnh thoảng vẫn nghe tin có những khu đất không người lai vãng ngay giữa thành phố, hoặc những kho hóa chất trong rừng.

Ở các thư viện lớn, có những cuốn sách mà không bao giờ có người đọc tới.

Và bây giờ là cuốn Từ điển tiếng Việt dùng cho học sinh của tác giả Vũ Chất.

-- Tại sao một cuốn sách như thế mà đến nay người ta mới phát hiện ra sai lầm không thể tha thứ của nó?

--Phải chăng điều này có nghĩa là trong khâu chuẩn bị cho nó xuất xưởng, các biên tập viên đứng tên ở các trang cuối không hề đọc nó, ông Tổng biên tập cũng không hề giở qua vài trang của nó trước khi ký giấy cho in.

--Và sau khi in ra nó không hề được bất cứ nhà giáo cũng như em học sinh nào sử dụng?

Tóm lại trên bãi tha ma sách vở chung quanh ta, lại thêm một hồn ma—không, có lẽ là một bóng ma vờ vật –ngay từ lúc ra đời đã nằm ép xác ở các ngăn tủ nào đó, chờ ngày trở thành sách cũ mang bán đồng nát, nghĩa là trở thành tro bụi—tro bụi không mang một nghĩa bóng gió nào hết.



Trí thức phương Tây và VN những năm chiến tranh

Trên một trang mạng, thấy đưa tin một nhà văn ta vừa lặn lội sang tận Anh mới tìm thấy phóng sự Việt Nam nhìn từ bên trong của G. Márquez, viết sau chuyến thăm Việt Nam tháng 7-1979.

Tôi chợt nhớ ra, hồi chiến tranh, ở Hà Nội có nhiều nhân vật trong giới trí thức phương Tây đã tới Hà Nội.Loáng thoáng tạm kể mấy người.

Trước tiên là M. MacCarty mà hồi ấy một số nhà văn tôi quen đã biết ở phương Tây được gọi là người đàn bà thông minh nhất nước Mỹ. Bà này có lần nói đại ý các trí thức phương Tây chỉ lo mách nước cho Nixon về việc rút quân, có biết đâu cái này tổng thống Mỹ nào cung biết thừa, chỉ có điều họ có định rút hay không thôi.



Một nhà văn Mỹ là S. Sontag, nghe nói bà này không chỉ nói về chiến tranh mà còn có những nhận xét thú vị về người mình. Cố nhiên hồi ấy bọn tôi không được giới thiệu. Mãi hơn ba chục năm sau, có hôm đọc sách của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc thấy ông kể S. Sontag từng nhận xét người Việt Nam ít có thói quen tư duy trên một phạm vi địa lý rộng.



Lại còn Peter Weiss nhà văn Đức. Ông này cũng có nhiều nhận xét liên quan tới đời sống bình lặng ở Bắc Việt Nam lúc đó. Ông bảo rằng ở đây có một cái gì quá ư đơn điệu, nhìn quanh chỉ thấy một đường mờ mờ ở chân trời, ở đây không có cái gì liên quan đến độ cao.

Đã bao nhiêu đầu óc thông minh của thời đại đã qua VN.

Nếu biết lắng nghe lời phát biểu của họ thì chẳng những chúng ta sớm ra khỏi chiến tranh mà còn biết phát triển hợp lý trong hòa bình.

Đằng này không.

Đại khái lối tiếp nhận ý kiến của nhà cầm quyền Hà Nội với khách nước ngoài hồi đó thực dụng đến thô thiển. Ai ca ngợi ta và khuyến khích chúng ta đánh nhau thì ta đưa lên tận mây xanh, và nhắc đi nhắc lại cho toàn dân được biết. Ai nói hơi khác là ta lảng, nếu nói ngược là ta cấm cửa không cho vào. Nếu ngoài những ý kiến về chiến tranh, người nói có đả động chút nào đến tình hình chung của VN (mà như tôi vừa dẫn là những ý kiến đáng quý giúp cho việc tự nhận thức của xã hội VN thời hậu chiến) thì đều bị vứt bỏ không thương tiếc.



Những trang ghi chép âm thầm

Nhân đây xin dẫn lại một tin trên mạng hải ngoại, có liên quan tới chuyện viết hồi ký về quãng đời đã qua .

dutule.com (ngày 1 tháng 4-2014): Một thành viên gia đình của cố nhà văn Mai Thảo cho hay: Khi soạn lại những vật dụng, tài liệu, bản thảo của nhà văn Mai Thảo / Nguyễn Đăng Quý, để cất vào một nơi thích hợp, họ đã tình cờ tìm thấy trong một hộp giấy được dán kín bởi băng keo, những trang hồi ký của ông.

Vẫn theo nhân vật này thì đó là những trang giấy viết tay về những ghi nhận của họ Nguyễn liên quan tới những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, cùng thời với ông, như Thanh Tâm Tuyền, Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, Bùi Giáng v.v… Điều đáng ngạc nhiên ở chỗ đó là những nhận định hoàn toàn trái ngược với những gì ông đã viết xuống thuở sinh tiền.




Tôi ghi nhận lại tin này để củng cố thêm cho một ý tưởng ngày càng ăn sâu trong tâm trí. Chúng ta thường mải lo phát biểu về các vấn đề trước mắt, trong khi có bao nhiêu vấn đề của quá khứ chưa được nhận thức, thậm chí đã nhận thức rồi vẫn không dám nói ra.

Ngoài ra, trong tập di cảo mang tính hồi ký này, cũng có những trang ông viết về các mối tình hay những người phụ nữ đã đi qua, hoặc có liên hệ với ông từ những năm tháng quê nhà và hải ngoại.

Các thành viên trong gia đình cố nhà văn Mai Thảo cũng cho biết thêm, họ chưa quyết định sẽ phổ biến hay không, tập hồi ký “nhậy cảm” này của ông.


Đọc tới phần cuối mẩu tin nói trên có thể có người nghĩ các hồi ký đã viết ở ta nhiều khi quá sa vào chuyện riêng tư, nhưng theo tôi, nay đã đến lúc mọi chuyện riêng tư đều có thể được đọc theo một cách nào đó để có ý nghĩa chung. Nếu cứ đòi hỏi cái gì thật có ý nghĩa mới đưa vào hồi ký thì rồi chả còn gì đáng công bố nữa. Stefan Zweig là người viết tiểu sử Marie Antoinette. Trong hồi ký Thế giới hôm qua, ông kể rằng ông đã từng đọc qua cả những hóa đơn ghi số tiền bà hoàng hậu này chi khi đi chợ.



Đi mua sách giáo khoa cũ ở Sài Gòn

Trong thời gian chữa bệnh ở Sài Gòn, một trong những công việc vào mỗi tuần tôi dành cho một buổi, là đi lục mua sách cũ.

Hồi trước, tức là những năm đầu tiên sau 75, bọn tôi chỉ biết đi kiếm các bản dịch tiểu thuyết nước ngoài.

Rồi có thời gian đi tìm sách triết.

Giờ đây, tôi lại thích đi tìm các loại sách giáo khoa dạy trong các nhà trường ở Sài Gòn cũ, nhất là phần khoa học xã hội.

So với những giáo trình đại học mà tôi đã được đọc ở Hà Nội, tôi thấy những cuốn sách dạy văn cho các lớp tú tài ở đây lại nghiêm túc và có giá trị hơn. Giá trị không phải ở sự phân tích tỉ mỉ, mà ở cái nhìn toàn cục, do đó giúp tôi có một cái nhìn đầy đủ hơn cả văn học Việt Nam trung đại lẫn văn học tiền chiến.



Các cuốn Quốc văn 12 ABCD bao giờ cũng có phần lý thuyết đi vào các tư tưởng lớn trong văn chương Việt Nam, bao gồm cả tư tưởng bình dân lẫn các tư tưởng tiếp thu từ các nước phương Đông cũng như phương Tây.

Phần lịch sử các bộ môn văn học bên cạnh lịch sử thi ca lịch sử tiểu thuyết có thêm phần lịch sử báo chí -- báo chí liên quan tới văn học - là cái phần Hà Nội lảng tránh.

Khi đọcViệt Nam văn học sử giản ướctân biên của Phạm Thế Ngũ, tôi đã rất thích thú khi thấy trong số các tác giả được viết thành chương riêng thì Phạm Quỳnh được viết kỹ nhất,chiếm nhiều trang nhất, khiến ta ngầm hiểu rằng Phạm Quỳnh thực đáng gọi là nhà văn quan trọng nhất của văn học Việt Nam.

Nay đọc các tác giả khác, trong các sách quốc văn dành cho cả trung học đệ nhất cấp lẫn trung học đệ nhị cấp, tôi đều thấy một tinh thần tương tự.



Như trên vừa nói một chỗ yếu của các giáo trình đại học phần viết riêng về văn học tiền chiến 1932 - 1945, là không nhìn thấy sự phát triển của báo chí, nên cũng bỏ qua luôn cả sự phát triển của tư tưởng Việt Nam mà trong bước tập tành ban đầu, thể hiện chủ yếu qua các ấn phẩm định kỳ.

Ngược lại trong một cuốn mà tôi tạm lấy làm ví dụ, cuốn Giảng văn lớp chín của Nguyễn Quảng Tuân, Trường Thi xuất bản 1970, thấy có cả một phần gọi là HỢP THÁI, nơi tập hợp những bài nghị luận luân lý và văn chương trích trong các tạp chí.

Ở các sách khác, thì phần này được rải đều ra, chứ không tập trung, nhưng người ta luôn luôn làm nổi một sự thật là đời sống tư tưởng trước 1945 khá đa nguyên đa dạng, chứ không có dòng nào độc tôn như thường thấy được viết trong sách vở Hà Nội.



Các cuốn sách giáo khoa viết về sử và luân lý đạo đức thì lại có rất nhiều tài liệu mới.

Chẳng hạn, trong cuốn Việt sử và thế giới sử của Nguyễn Văn Mùi nhà xuất bản Thăng Long Sài Gòn 1960 thấy công bố bản hiến pháp được thông qua ở Sài Gòn năm 1956.

Còn trong cuốn Đạo đức học 12 ABCD của Vĩnh Đề, Nguyễn Văn Đa, Lê Tấn Lộc, in năm 1973, trong chương V còn chép ra đầy đủ -- và chắc là với chất lượng dịch hoàn hảo - cả bản tuyên bố về nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948.



Điều đáng kể hơn: Ta biết rằng bao nhiêu năm nay sinh viên văn sử ở Hà Nội đều không hề biết đến lịch sử văn hóa dân tộc. Lịch sử Việt Nam tóm lại toàn là lịch sử nông dân khởi nghĩa, lịch sử các triều vua, lịch sử nội chiến (tuy không gọi sự vật bằng tên của nó, nhưng đúng là toàn lịch sử nội chiến).

Trong khi đó, thì trong các sách sử địa dành cho lớp 12 ở Sài Gòn, bao giờ cũng phần viết về văn minh Việt Nam.

Ở các phần này, người học sinh trước khi ra trường, sau phần lịch sử hình thành, và các ảnh hưởng, được học cả ba phương diện, sinh hoạt chính trị, sinh hoạt kinh tế xã hội, sinh hoạt tinh thần làm nên văn minh Việt Nam.



...và sách cũ Hà Nội

So với ở Sài Gòn thì việc tìm mua sách cũ ở Hà Nội nhiều khi trông vào sự ăn may. Vì các hàng sách cũ ở Hà Nội phần nhiều vốn liếng ít hơn, làm ăn nghiệp dư tài tử hơn.

Sách quý ở Sài Gòn phần nhiều là sách ở các gia đình.

Sách quý ở Hà Nội phần nhiều là sách do các thư viện thanh lý, hoặc sách do các tư nhân nghèo quá, nhà không đủ chỗ chứa sách, nên bán bừa cho xong.

Lâu nay ở Hà Nội có một hiện tượng phải nói là quái gở.

Có một số sách về khoa học xã hội có quan điểm chính trị mới mẻ do nước ngoài đề nghị cũng đã được in.

Vốn đã không thích, song vì muốn kiếm lợi trên phương diện ngoại giao người ta buộc lòng phải in.

Có điều chỉ in với số lượng thấp và không muốn cho những đầu óc độc lập có dịp tiếp xúc.

Chỉ đến hiệu sách không bao giờ người ta tìm được các cuốn loại đó. Mà chỉ hy vọng là cơ quan nào đó hoặc ông cốp nào đó được biếu lại không dùng, đem bán đồng nát.

Tôi không phải loại chơi sách, nên chỉ lần mò ở một số hiệu sách cũ, với hy vọng có được các cuốn sách loại đã in ra mà chưa bao giờ sống này.



Việc tái bản những cuốn sách có giá trị

Thường đi hiệu sách nhiều khi với tôi cũng là dịp để mà buồn. Bao nhiêu sách mới ra đời mà riêng mình thì không có mặt. Bao nhiêu đầu sách tầm thường, nhạt nhẽo được tái bản, trong khi sách của mình đã hết mà nói với đầu nậu in cho thì họ bảo không ai đọc. Và họ nói cũng có lý thật. Bây giờ nghiên cứu phê bình bán được chủ yếu là sách giúp cho đi thi. Mình trong việc này, chả cần cho ai cả.

May lắm chỉ còn chút an ủi thật ra còn biết bao sách hay trên đời nữa mà cũng chỉ xuất hiện một, hai lần rồi các thế hệ sau cũng không thể tìm sách mà đọc.

Một trong những ví dụ mà chính tôi có liên quan là trường hợp cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoevski.

Bây giờ thì Bakhtin cũng đang thành mốt.

Nhiều anh em nghiên cứu trẻ hỏi mượn tôi về cuốn sách đó. Bản thân tôi đã có lần đề nghị với anh Trần Đình Sử là bảo NXB Giáo Dục in lại, hoặc nếu không thì cho các NXB khác in.

Nhưng rồi chả bao giờ lời đề nghị của tôi được đáp ứng. Trong những lúc bi quan nhất, tôi nghĩ không chừng càng những cuốn sách tốt thì người ta càng không muốn cho in. Để mà giữ độc quyền của những người đi trước.


Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

Mấy cảm nhận về sự khác biệt giữa giáo dục miền Nam và giáo dục miền Bắc


Đã in  tạp chí NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN


 số 7-8 (114-115).2014, 


số chuyên đề GIÁO DỤC MIỀN NAM VIỆT NAM (1954- 1975)





Tôi vốn là người làm nghề nghiên cứu văn học.Trong
cái nghề thuộc loại công tác tư tưởng này, những năm trước 1975, tôi chỉ được
phép đọc các sách báo miền Bắc, còn sách vở miền Nam bị coi như thứ quốc cấm. 


Có điều, không phải chỉ là sự tò mò, mà chính lương tâm nghề nghiệp buộc tôi
không thể bằng lòng với cách làm như vậy. 




Tôi cho rằng, muốn hiểu cặn kẽ văn học
hiện đại, phải hiểu văn học cổ điển; muốn hiểu văn họcVN phải hiểu văn học thế
giới. Thế thì để hiểu văn học miền Bắc làm sao lại lảng tránh việc nghiên cứu
văn học miền Nam được.


 Đối với
giáo dục cũng vậy. Từ sau 30-4-75, tôi vẫn sống ở Hà Nội. Sự tiếp xúc với giáo
dục miền Nam (dưới đây viết là GDMN), chỉ dừng ở mức sơ sài bề ngoài.


 Tuy
nhiên, do việc tìm hiểu chính nền giáo dục miền Bắc (GDMB) ở tôi lâu nay kéo
dài trong bế tắc, trong khoảng mươi năm gần đây tôi tìm thấy  ở GDMN một điểm đối chiếu.


Lúc cảm
nhận được phần nào sự khác biệt giữa hai nền giáo dục Bắc-Nam 1954-1975 cũng là
lúc tôi hiểu thêm về nền giáo dục mà từ đó tôi lớn lên và nay tìm cách xét đoán.
Tôi không chỉ muốn nêu một số đặc điểm mà còn muốn xếp loại nền giáo dục tôi đã
hấp thụ. 


Bài viết này có thể được đọc theo chủ đề khác đi một chút: Nhận diện  giáo dục Hà Nội  từ 1975 về trước  qua sự đối chiếu bước đầu với giáo dục Sài
Gòn.







                                KHÁC BIỆT NGAY TỪ HOÀN CẢNH HÌNH THÀNH       


 Chỗ khác
nhau giữa GDMN và GDMB xuất phát trước tiên từ hoàn cảnh xã hội mỗi nền giáo dục
đó được đặt vào, từ đó mà nó lớn lên là cái điểm đích mà nó hướng tới phục vụ.


Ngay từ những năm 1948 - 50, nền giáo dục tự
phát trước tiên đã hình thành ở các vùng hồi trước gọi là vùng tự do; không chỉ
Việt Bắc, những vùng tự do này tồn tại ở cả Nam bộ, rồi nam và trung Trung bộ,
rồi  tập trung và có ý nghĩa nhất với
tương lai giáo dục là những quan niệm, những cách hình thành, các trường sở… về
sau.


Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự
kéo dài của lối phát triển giáo dục trong chiến tranh. 


Nhờ có tinh thần yêu nước và những bài bản đã học
được trong các nhà trường Pháp thuộc, nên ban đầu, nền giáo dục này có tạo được
một số hiệu quả nào đó.


Việc kéo nhau lên Việt Bắc lúc đầu ai cũng nghĩ
là chỉ một hai năm. Sống tạm bợ ít ngày cần gì. Nhưng rồi đường lối trường kỳ
kháng chiến tiếp thu được từ Trung quốc được quán triệt khiến mọi mặt hoạt động
được đặt lại trong đó có công tác giáo dục. Làm theo ý chí hơn khả năng thực tế.
Quan niệm giáo dục chưa hình thành cũng phải làm.


 Giáo dục
chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục dở dang chắp vá, mà lại vẫn
phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền giáo dục mới mẻ, cách mạng
.


 Trong khi ở khu vực kháng chiến hình thành nền
giáo dục như trên thì, ngay từ trước 1954, một nền giáo dục do người Pháp mở từ
trước cũng đã tồn tại ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, và rõ nhất là ở Sài Gòn, và sau
này chuyển giao, phát triển trở thành giáo dục miền Nam.


 Đối tượng
của những so sánh đối chiếu dưới đây là hai thực thể quá khác nhau, còn phải
nghiên cứu công phu,  ý kiến của chúng
tôi chỉ mới là những phác thảo sơ bộ.  
                            


                                   


                                                    
CHUẨN VÀ  PHI CHUẨN


Đáng lẽ khi hòa bình lập lại những người kháng
chiến đã trở về Hà Nội  cái tinh thần
giáo dục phi tiêu chuẩn  hôm qua cần phải
vượt qua, thì -- như một thói quen và kết quả của một hiểu biết thiển cận -- nó
lại ăn sâu vào mọi mặt, chi phối cách hình thành và những định hướng lớn của
GDMB


Nói quá
lên thì có thể bảo, như một cơ thể, GDMB thuộc loại tiên thiên bất túc,
tức sinh ra đã không đủ các bộ phận cần thiết, sinh ra đã bất thành
nhân dạng
.


 Phương châm ở đây là làm lấy được, tức là
chưa đủ điều kiện, nhưng thấy cần, vẫn cứ làm -- rồi để yên lòng nhau, sẽ viện
ra đủ lý lẽ để chống chế, để lấp liếm và xa hơn nữa, sẵn sàng tự ca tụng.





Ví dụ một trường đại học trước tiên phải có đủ
bộ phận giảng viên đảm nhiệm việc giảng dạy theo những quy định quốc tế. Ở các
nước gọi là đang phát triển, một trường đại học chỉ được thành lập khi có một
bộ phận nòng cốt là những giáo sư đã học tập ở những Sorbone, Oxford hoặc những
trường tương tự… trở  về.


Đâu người ta cũng hướng tới những yêu cầu này
để noi theo, nay chưa làm được thì mai làm. GDMN cũng theo, GDMB thì không.


 Trên danh nghĩa đại học VN cũng có những
người gọi là giáo sư hay tiến sĩ đấy, nhưng đó là ta phong với nhau để làm
việc, chứ thực tế  thấp hơn hẳn chuẩn mực quốc tế “một cái đầu”.


Rộng hơn câu chuyện giáo viên là chuyện cơ sở
vật chất và không khí học thuật của một trường đại học.


 Rồi rộng hơn câu chuyện của  riêng
ngành đại học là chuyện của mọi cấp học. 


Tính phi chuẩn  bao trùm trong mọi lĩnh
vực, từ trường sở, sách giáo khoa, cách cho điểm, cách tổ chức thi cử…, cho tới
chất lượng dạy và học.


 Sau mấy
chục năm chiến tranh, cái sự làm lấy
được làm theo ý chí đã thành chuẩn mực duy nhất, nó chi phối tất cả,
khiến giáo dục VN có cách tồn tại, cách vận hành riêng chẳng giống ai. Các
trường mới lập ra phải theo trường cũ, sau giải phóng thì miền Bắc buộc miền Nam
phải theo.


 Tạm ví một cách thô thiển: như trong khi
người ta đi thì mình phải bò phải lết, vậy mà vẫn tự hào rằng mình cũng đang đi,
chứ đâu có đứng yên.








                                       KHÁC
BIỆT TRONG
 QUAN
NIỆM  





Về bộ
máy giáo dục


Có dịp tìm hiểu lại nền giáo dục trước 1945 và
nền giáo dục ở Sài Gòn trước 75, tôi nhận ra một sự thật -- hồi đó, bản thân
giáo dục là một hệ thống quyền lực. Nó có nguyên tắc tổ chức riêng và những con
người riêng của nó.


 Nhà thơ Chế Lan Viên có lần nói với Nguyễn Khải và Nguyễn
Khải về kể lại cho tôi một nhận xét. Ông Chế bảo, ở xã hội cũ, một viên tri huyện
tuy vậy vẫn phải nể nhà sư trụ trì mấy ngôi chùa lớn, hay các vị đỗ đạt cao nay
không làm gì chỉ về mở trường trong vùng. 


Còn các chức danh đốc học, giáo thụ,
huấn đạo – các học quan tương ứng với tỉnh, phủ, huyện -- là người do triều
đình cử, chứ không phải do chính quyền địa phương cử, hoặc nếu địa phương cử
thì triều đình cũng phải duyệt.


Tôi cảm thấy điều này được GDMN tiếp tục. Nền giáo dục ở đây do những
người thành thạo chuyên môn quyết định.

 Còn ở miền Bắc  thì hoàn toàn ngược lại. 


Nhiều vị sư do địa
phương phân công vào chùa hoạt động, hoặc sau khi vào chùa, lấy việc cộng tác với
chính quyền làm niềm vinh dự, nghĩa là trong hệ thống sai bảo của chính quyền
theo nghĩa đen.

Còn người phụ trách giáo dục các cấp hoàn toàn do Ủy ban cử sang.

Cả những hiệu trưởng cũng vậy, phải do Ủy ban thông qua.

Bộ máy tổ chức cán bộ địa phương thường hoạt động theo nguyên tắc là ai tài giỏi
cho đi phụ trách các ngành chính trị kinh tế. Còn văn hóa giáo dục sẽ phân công
cho những người kém thế lực và kém năng lực.

Đánh đấm ở chiến trường hay vật lộn với sản xuất với thị trường mới khó, chứ việc
quản mấy ông thầy với đám học trò ranh, ai làm chẳng được – người ta hiểu vậy.

Một người bạn già có hiểu nhiều về giáo dục ở 
thời Việt Nam dân chủ cộng hòa kể với tôi là Bộ trưởng Bộ giáo dục trong
chính phủ liên hiệp thành lập 2-1946 là Đặng Thai Mai. 


Nhưng về sau, do sinh
viên trường đại học Đông dương đề xuất thắc mắc, Đặng Thai Mai chỉ tốt nghiệp
Cao đẳng Sư phạm, nên phải thay bẳng Nguyễn Văn Huyên có bằng tiến sĩ Sorbone Đại
học số một của Pháp.

Việc chọn người tham gia chính phủ thời kỳ 1945-46 có thể có nhiều nguyên nhân
khác nhau, nhưng tôi tin chắc rằng thời ấy việc cử Bộ trưởng Bộ giáo dục buộc
phải tuân theo nhiều chuẩn mực nghiêm khắc, chứ không phải à uôm hoặc phe cánh
chạy chọt, như hiện nay
.


Vả chăng vấn đề không phải chỉ riêng ông bộ trưởng, mà là mọi cấp
quan chức của giáo dục.




Một trong những chuyện vui vui  xảy ra với
nền giáo dục hôm nay là chỉ thị của Bộ gíáo dục khoảng cuối 2013 cho các tỉnh, khuyên cơ quan chính quyền tỉnh
nên cẩn thận và ráo riết trong việc kiểm soát các tin tức tiêu cực từ các cuộc
thi.

Nó là bằng chứng cho thấy giáo dục đã nát như thế nào và người ta cố tình che
giấu như thế nào.


Nhưng nó cũng tố cáo sự phụ thuộc hoàn toàn của
nhà trường vào nhà cầm quyền. Giáo dục trở thành việc nhà của địa phương rồi,
người ta cho biết cái gì thì dân được biết cái đó.




Một kỷ niệm nữa có liên quan tới việc giáo dục phụ thuộc chính trị một cách thô
thiển. Những năm 55 – 58,  tôi học cấp II
Chu Văn An. Trường ở ngay cạnh Chủ tịch phủ. Hễ có các vị quan khách nước ngoài
tới thăm, xe đưa từ sân bay Gia Lâm về Ba Đình, là bọn tôi được lệnh bỏ học, ra
đứng đường để hoan nghênh các vị khách quý.

Ở các địa phương việc huy động thầy trò vào các công việc gọi là công ích, là
công tác chính trị của địa phương, càng phổ biến.

Người ta tự coi mình đương nhiên có quyền can thiệp vào mọi việc của nhà trường.
Còn những việc như thế, làm hại đến chất lượng giáo dục ra sao, thì không ai cần
biết.





Những
nguyên tắc căn bản của giáo dục


Mấy năm gần đây hoạt động của GDMN được nhắc nhở
nhiều trên báo chí, nhất là trên mạng.


Nhờ thế, bọn tôi có thêm dịp để nghĩ lại về nền
giáo dục mà đến nay ít được biết tới.





Trong một bài mang tên Nền giáo dục ở miền Nam 1954-75, một nhà giáo dục đồng thời trước
đây là một quan chức trong nghề (như trên đã nói, quan chức giáo dục ở miền
Nam khác hẳn quan chức miền Bắc
), ông 
Nguyễn Thanh Liêm, đã nhắc lại những nguyên tắc căn bản của nền giáo mới
nhân bản khai phóng dân tộc những
nguyên tắc này đã ghi trong Hiến pháp VNCH 1967.





Đối chiếu với giáo dục miền Bắc, sơ bộ tôi thấy
đại khái thấy hai nguyên tắc đầu cũng thường được Hà Nội nhắc tới, nhưng được
giải thích khác đi, và nguyên tắc thứ ba thì hoàn toàn người làm GDMB
không  có một ý niệm gì hết.





Về tính dân tộc


 Ta hãy đọc
lại cách giải thích của các nhà giáo miền Nam. Ở đây, bảo đảm tính dân tộc,
phát triển tinh thần quốc gia của học sinh 
có nghĩa





giúp học
sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân;
giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh
thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc;
giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả;
giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú
của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những
truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có
tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập
.


http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/





 Các nhà
giáo miền Bắc, trên đại thể, cũng nói thế. Nhưng điểm nhấn thì khác. Trong cách
giải thích của người làm giáo dục Hà Nội, tính dân tộc trước tiên là việc dân
mình tự làm lấy giáo dục của mình. Chúng tôi thường tự hào đây là một nền giáo
dục riêng của người Việt, một nền giáo dục không có dây dưa gì  nhiều với nền giáo dục  mà thế kỷ trước, người Pháp đã mang lại.
Chúng tôi làm lấy và đôi khi cố ý làm ngược với những bài bản thời thuộc địa.


 Đây là
cách hiểu về tính dân tộc mà giới văn hóa tư tưởng đề xuất và được coi là tư tưởng
chỉ đạo. Thì cũng là cách hiểu trong giáo dục.


 Một khía
cạnh khác trong cách hiểu về tính dân tộc của miền Bắc. Không phải là những người
làm giáo dục không biết chỗ yếu kém vốn có. Để tự trấn an, người ta biện hộ rằng
trong cái vẻ luộm thuộm nhếch nhác, hình như GDMB đang trở lại với nền giáo dục
của ông cha ta ngày xưa thời trung đại, chỉ cốt phát huy tinh thần hiếu học của
con người. 


Dân tộc trong trường hợp này, dân tộc đồng nghĩa với “ta về ta tắm
ao ta”, từ chối những đổi mới hiện đại.


 Cũng chính là những lý do được viện dẫn
khi, trong đời sống văn hóa, người ta kéo nhau trở lại với  các phong tục cổ hủ và khuếch trương mê tín đến
một mức độ người xưa không thể tưởng tượng.


Trong khi đó, như vừa dẫn ở trên, tính dân tộc
được các nhà GDMN hiểu là phải hướng về một thứ dân tộc hiện đại.





Về tính nhân bản


 Trên giấy
tờ văn bản, chẳng bao giờ giới văn hóa giáo dục miền Bắc phủ nhận tính nhân bản,
tuy là trong thực tế người ta rất ngại nói tới.


 Phần thì xã hội ở đây đã xem đấu
tranh giai cấp là động lực phát triển; phần nữa thì đang trong thời chiến
tranh, không thể nói nhiều đến tình người, nó xâm hại ý chí chiến đấu.


Khi cần phải nói chuyện với thế giới, các nhà
tư tưởng miền Bắc cũng công nhận nhân đạo chủ nghĩa là lý tưởng tốt đẹp và giáo
dục phải có nhiệm vụ hướng tới.


 Nhưng trong thực tế, cách lý giải nghĩa về chủ
nghĩa nhân đạo thường giản đơn và cổ lỗ. Lại thường giải nghĩa rất mới: “chủ
nghĩa nhân đạo cao nhất là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu chống lại mọi áp bức bất
công”.


 Trong bài Đế quốc Mỹ phải là kẻ thù riêng của mỗi trái
tim ta
của Chế Lan Viên, người ta còn thấy những câu thơ mà có lẽ con người
ở các xã hội khác không sao hiểu nổi:


--Miền
Nam ta ơi


Cái hầm chông là điều
nhân đạo nhất


– Ngọn súng trường ta
ơi ngọn súng rất nhân tình


Giới giáo dục miền Bắc cũng  theo sự chỉ đạo đó.


Cách giải thích về nhân bản của các nhà giáo miền
Nam
ngược hẳn. Theo tôi hiểu , nó gần với cách hiểu
của phạm trù này ở các xã hội hiện đại.


  Hãy thử
đọc một số sách thuộc tủ sách giáo dục
của nhà xuất bản cũng tên là Trẻ, in
ra ở Sài Gòn khoảng mấy năm sau 1970.


 Lúc này, một nhóm các nhà giáo dục, có lẽ
mới đi học Anh Mỹ về, lập nhóm và đã công bố nhiều tài liệu mới viết có, vừa được
dịch có.


 Khi bàn
về  mục đích giáo dục, Nguyễn Hòa Lạc viết:





Mục đích
tối thượng  của giáo dục là làm thế nào
giúp con người đạt được nhân cách, các bản ngã đích thực của mình, hầu có thể  sống trọn kiếp nhân  sinh […] nghĩa là giúp họ thể hiện  được con người của mình  trong ý nghĩa “con người là một hiện hữu tại
thế, một hữu thể có  lý trí và tự do, vừa
suy tư vừa hành động”.


Lê Thanh
Hoàng Dân- Trần Hữu Đức..Các vấn đề giáo
dục
nxb Trẻ,1970 tr 209





  Cách hiểu như thế này cố nhiên không bao giờ được đề
lên như mục đích của GDMB. Với các nhà giáo Hà Nội,
nhất là vào thời kỳ sau khi Hà Nội được
tiếp quản từ tay người Pháp (10-1954), 
không làm gì có những con người chung chung. Mỗi con người đều thuộc
về một giai cấp do đó họ phải sự chỉ đạo của các đảng phái đại diện giai cấp
của họ.
Cách
hiểu của GDMN:





chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận
việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ
thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý
nhân bản, mọi người có giá trị như
nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.


http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/





 dù có được
coi là đúng đi nữa, cũng không bao giờ được ứng dụng. Mà trong thực tế, lại làm
ngược.


  Trước sau,
với nền GDMB, chấp nhận nhân bản theo nghĩa hiện đại, và đặt vấn đề  tôn trọng cá tính
của mỗi cá nhân, bao giờ cũng là một chuyện quá phiền phức, giá có
công nhận là đúng nữa thì hoàn cảnh hiện thời không cho phép người ta tuân thủ. 


Vào khoảng những năm 1960, có cả một cuộc vận động chống chủ nghĩa cá nhân.


Thế
thì làm  sao có thể tính chuyện nghiên
cứu về con người cá nhân, và giúp lớp trẻ thực hiện bản thể cá nhân vốn có
trong họ được! 


Cái luận điểm từng được thống nhất nêu ra trong các văn bản miền
Nam





Triết lý
nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy
con người làm gốc
, lấy
cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu
cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất
cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác.


 Giáo dục Việt Nam cộng hòa http://vi.wikipedia.org/wiki/





phải được coi là xa lạ và nếu có ai nghĩ vậy
thì cần phê phán.





Chúng tôi không dẫn lại đây các văn kiện có
tính chỉ đạo đối với GDMB trong đó việc đào tạo con người thành những công cụ đắc lực cho cuộc chiến đấu trước
mắt được nhấn mạnh.  Chỉ xin lưu ý một điểm,
đó không phải là phát minh của các nhà chỉ đạo GDMB nói chung mà  còn là nguyên lý chỉ đạo giáo dục ở một nước
mà miền Bắc lấy làm mẫu như giáo dục Nga xô viết. 


Trong cuốn Các vấn đề giáo dục thuộc tủ sách giáo dục
nxb Trẻ đã nói, có một  phần lớn điểm sơ lược về giáo dục nước ngoài,
cả phương Đông lẫn phương Tây, chắc là do kê cứu các sách nghiên cứu của Anh Mỹ
và Pháp  mà viết lại. Phần viết về giáo dục
Nga kết lại như sau:





--Xét
chung thì nền giáo dục ở Nga  rất thực tiễn
và khoa học, nhưng nó chỉ là thứ giáo dục một chiều, nhăm biến con người thành
một công cụ sản xuất [và ở VN là chiến đấu - VTN] tới mức tối đa. Một khi con
người đã trở thành công cụ của guồng máy cộng sản thì mất hết nhân tính. Do đó
chúng ta có thể kết luận rằng giáo dục xô viết tuy thực tiễn và hữu hiệu nhưng
lại phi nhân tính
. (Sđd tr. 228)





Có thể mượn để nói về GDMB.





Về tính khai phóng


Trong mấy chữ gọi là nguyên tắc căn bản trong
các tài liệu GDMN, đối với bọn Hà Nội chúng tôi,  chữ khai phóng là hơi lạ.


Mở Hán Việt
tân từ điển
 của Nguyễn Quốc Hùng ( Khai trí 
S.1975),  thấy ghi  khai phóng tức mở mang và buông thả, ý nói
làm cho tốt đẹp hơn; không kìm giữ,  mà
trái lại, muốn giúp đỡ cho tiến xa hơn
.


Thoạt đầu tôi thấy là trong một mức độ nào
đó,  khai phóng có vẻ gần với khái niệm
hiện đại tiên tiến của miền Bắc, mấy chữ này thường dùng cả trong kinh tế lẫn
giáo dục.


Về sau đặt khai phóng vào cái nền chung của các
nguyên tắc căn bản của GDMN, tôi mới hiểu khai phóng gần với  khái niệm cơ bản của nhân học hiện đại là tự
do – và do đó quá mới mẻ với chúng tôi.


Trong cuốn Chân
dung  những nhà cải cách giáo dục tiêu biểu
trên thế giới,
do tổ chức Unesco
bảo trợ biên soạn và chi phí xuất bản (bản dịch tiếng Việt của nxb Thế giới, H. 2004), phần viết về Thái
Nguyên Bồi (1868-1940),  có đoạn dẫn lại
mấy ý của vị Hiệu trưởng sáng lập Đại học Bắc Kinh có liên quan tới  phương hướng phát triển  giáo dục của nước Trung Hoa thế kỷ XX.





  Chúng ta phải được tự do tư tưởng và tự do
ngôn luận và không để cho một trường phái triết học hay bất kỳ một loại hình
tôn giáo nào giam hãm tư tưởng chúng ta. Trái lại chúng ta phải hướng tới  những tư tưởng cao cả mang tính nhân loại, những
tư tưởng sẽ tồn tại mãi, bất kể không gian và thời gian. Đó là nền giáo dục xứng
đáng với tên gọi nền giáo dục toàn cầu.(sđ d tr138 )





 Giáo dục 
giúp cho thế hệ trẻ có cơ hội phát triển trí lực và hoàn thiện tính cách
cá nhân, đóng góp cho nền văn minh nhân loại. 
Bởi vậy giáo dục không hể  trở
thành công cụ đặc biệt  giúp cho những kẻ
muốn thao túng xã hội theo đuổi những mục đích xấu xa. Việc dạy dỗ tại nhà trường  phải hoàn tòan trao cho các nhà giáo độc lập
không bị ảnh hưởng bởi bất cứ đảng phái chính trị hay tôn giáo nào (sđ d tr
143).  


                            


Tinh thần khai phóng như vậy đã trở thành một
khía cạnh chủ yếu của quan niệm nhân bản như trên đã nói.


 Tinh thần
khai phóng này cũng chi phối  cách các
nhà GDMN hiểu khác đi về tính dân tộc, so với nội dung được GDMB  chấp nhận. 


Các nhà GDMN từng hào hứng nói về xu thế hội nhập
đến rất sớm của mình. Cách nói của Nguyễn Thanh Liêm:





Tinh thần
dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại,
giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến
trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa
nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội
tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới
.


http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/





 là theo
tinh thần khai phóng vừa nói.


  Với
GDMB, nói dân tộc là để từ chối khai phóng. Còn với GDMN, chính là cần khai
phóng thì mới giải quyết vấn đề dân tộc một cách triệt để.


Nhìn theo cách nào thì khai phóng mà các nhà giáo dục ở Sài Gòn đã nói cũng bao hàm một ý nghĩa mà GDMB không thể chấp nhận được. Thậm
chí phải nói là GDMB đã làm ngược lại.





  Hẳn là
không xa sự thật lắm nếu kết luận trong khi giáo dục thế giới và GDMN là khai
phóng thì GDMB là khép kín. Trong khi GDMB chỉ hướng tới các mục đích trước mắt
– một tinh thần thiển cận sát mặt đất--, thì tinh thần khai phóng mà GDMN muốn
xây dựng bao giờ cũng giúp cho người ta hướng tới tương lai.


Trong cuốn Các
vấn đề giáo dục
đã nói, ở tr  204 tập
I, tôi còn thấy các tác giả dẫn lại một câu của Kant:





 Mục đích của giáo dục là huấn luyện trẻ  không phải chỉ nhằm vào sự thành công của
chúng trong tình trạng xã hội hiện tại 
mà nhằm một tình trạng có thể  tốt
đẹp hơn, hợp với một quan niệm lý tưởng của nhân loại (sđ d tr 204).





GD MN nhằm vào những mục đích như thế mà GDMB
thì không.





                                                               ĐOẠN KẾT





Giống như xã hội nơi đây, sự phát triển giáo dục
ở miền Bắc đi theo một cái mạch phải nói là không bình thường.


Nếu GDMN tiếp nối cái mạch giáo dục của nhiều
nước trên thế giới và trực tiếp là nền giáo dục VN trước 1945 thì GDMB, xét
theo cả chặng đường dài năm sáu chục năm, trong khi cố tìm cốt cách riêng của
mình, hóa ra lại chẳng tuân theo quy luật 
nào cả.


 Nếu GDMN
được triển khai theo một đường hướng khoa học của thế giới hiện đại thì GDMB lại
có những khía cạnh như trở lại thời tiền hiện đại.





 Cần nói
thêm là trong khi phải làm giáo dục một cách mò mẫm, những người làm giáo dục ở
miền Bắc trước 1975 đã luôn luôn tự nhủ rằng chúng ta đang làm một cuộc cách mạng
trong giáo dục và giáo dục ta đang là một nền giáo dục tiên tiến.


 Đó là một
ý nguyện chính đáng.


Trong chiến tranh, Hà Nội hoàn toàn khép kín.
Muốn thì cũng muốn lắm, nhưng trong hoàn cảnh đóng cửa cách ly với thế giới,
làm gì có chuyện hội nhập theo đúng nghĩa của nó.


Cuộc sống trì trệ kéo dài. 


Đối chiếu với những điều bọn tôi được dạy bảo từ nhà trường
phổ thông và sau này từng coi là phương
hướng suy nghĩ, với các tài liệu mới đọc được, càng thấy trong khi khác biệt
với GDMN, thì GDMB cũng khác nhiều so với thế giới
. Đủ hiểu tại sao sau khi
đào tạo trong nước, ra tiếp xúc với xã hội hiện đại, cánh học sinh sinh viên miền
Bắc bọn tôi thường ú ớ, lạc lõng, trong khi những người được GDMN đào tạo thì hội
nhập rất tự nhiên và hiệu quả.







Mươi năm gần đây, tình hình có chút đổi khác,
nhưng là chỉ đổi khác trên bề mặt. Cựa quậy mấy 
thì nền giáo dục này cũng không khác được so với chính mình. Nó đã cạn
kiệt năng lực tự cải hóa. Ngay cả những người trong bộ máy quyền lực cũng đều
tính chuyện cho con em mình qua nhiểu nước phương Tây, nhất là sang Mỹ để học.
Nhưng họ chỉ lo được cho gia đình riêng của họ thôi. Ở trong nước, những bài bản
của miền Bắc cũ được tân trang lại chút ít vẫn ngự trị trong toàn bộ nền giáo dục,
và trong thâm tâm, nhiều người đã bắt đầu nghĩ rằng hình như có một bãi lầy đã
được tạo ra và chúng ta không bao giờ ra thoát.