Thứ Sáu, 30 tháng 1, 2015

Tô Hoài, cuộc phiêu lưu dài dài và một định hướng chắc chắn



đã đưa lên mạng ngày 05-10-2014, có bổ sung và sửa chữa






Lời dẫn – Một ví dụ về sức đề kháng của các
nhà văn miền Bắc



 Trong bài  Nhân
một cuộc hội thảo về văn học miền Nam 1954-75
 viết ngày 19-12 -2014, khi nói về văn
học Hà Nội sau 1945, tôi có viết:


 “Tôi không nói tất
cả, tôi chỉ nói rằng vượt lên trên một số đông tầm thường và xu thời, vẫn có
những cây bút miền Bắc tin ở sứ mệnh cầm bút của mình.


Ở những người này có rất
nhiều mâu thuẫn, cũng có lúc họ đã chùn tay, đã đầu hàng, nhưng rồi tiếp sau
đó, bên cạnh đó, lại vẫn giữ được cái phần lương tâm lương tri của một người
viết văn chân chính.

Nỗ lực đó của họ còn được ghi lại trong các trang sách
”.






Một số bạn đọc tỏ ý nghi
ngờ, ngụ ý là cố tìm cũng chẳng thấy ai  có được cái phần lương tri đó,
 không ai có dịp bộc lộ điều đó qua tác phẩm.


 Tôi cho đó là một
cách nhìn quá đơn giản.


Trong khoa học có khái niệm
sức đề kháng của cơ thể để chống lại bệnh tật. Người ta không nên sợ bệnh tật.
Miễn còn sức đề kháng (cũng gọi là khả năng miễn dịch) thì người ta vẫn còn có
thể tìm được cách gì đó để chống lại mọi tác động xấu từ bên ngoài, chống lại số
phận.


 Khi nói về cách
tồn tại của các nhà văn miền Bắc sau 1945, có lẽ phải dùng tới khái niệm
đề kháng trên. Để có sức thuyết phục, người ta  sẽ phải dừng lại kỹ hơn ở
các trường hợp khá phức tạp như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu …Nhưng nếu cần một người theo đuổi lẽ sống của mình một cách kiên trì dai dẳng hơn cả, theo
tôi có thể lấy ngay Tô Hoài,.


























Vào dịp 100 ngày qua đời của Tô Hoài , tôi đã viết bài dưới đây,
sơ bộ phác ra cái mạch sáng tác của tác giả Dế
mèn phiêu lưu ký
. Nay nhân dịp nghĩ về định hướng tư tưởng của các nhà văn
miền Bắc nói chung, xin giới thiệu lại. Cố nhiên mọi điều đều cần nghĩ tiếp.




 Tadeusz Rozewicz là nhà thơ Ba Lan sinh
1921 qua đời 2014. Có một bài thơ của ông tìm cách cắt nghĩa về người viết văn
gợi cho tôi nhiều liên tưởng.









Nhà thơ là ai
 

Nhà thơ là người làm thơ

và là kẻ chẳng làm thơ bao giờ






nhà thơ là người chẳng ưa ràng buộc

và là kẻ tự buộc dây vào mình




nhà thơ là người cả tin

và là kẻ chẳng chịu tin bao giờ




nhà thơ là người lừa dối

và là kẻ bị dối lừa




nhà thơ là người gục ngã

và là kẻ tự mình đứng dậy




nhà thơ là kẻ ra đi

và là kẻ một li chẳng rời. 




Lê Bá Thự dịch



Ở cuối bài thơ có chua rõ thời điểm sáng tác 18-8-2011. Nghĩa là nó được viết
vào dịp tác giả Tadeusz Rozewicz chín mươi tuổi.

Tôi đọc và nghĩ đến trường hợp Tô Hoài.







Ngay ngày 6-7-2014, mạng BBC có bài mang tên Nhà văn Tô Hoài từ trần ở tuổi 94, trong đó có đoạn nói khơi khơi rằng
nhà văn này có một cách nhìn
chính thống


Năm 1992, hồi ký Cát Bụi
Chân Ai
 của ông đã gây ồn
ào dư luận khi đưa ra chân dung một số nhà văn thuộc hàng 'vai vế'.
Trong hồi ký, ông có nhắc tới Nhân văn Giai phẩm, một chủ
đề luôn được coi là nhạy cảm, tuy cách ông đề cập, nhận định vấn đề
được đánh giá là chính thống, phù hợp với cái nhìn của giới chức.


 Tôi cho đây là một lời đánh giá thiếu chính xác nếu không
nói là không thật hiểu  về các nhà văn Hà Nội sau 1945.






Tối sáng lẫn lộn…






Những cách tồn tại khó khăn...






Những tiếng nói lắp bắp






Những bộ mặt thường khi lờ mờ nhòe nhoẹt… 






 Chúng tôi là thế. Nhưng ai sẽ hiểu cho chúng tôi đây?









Nói cho đầu đuôi thì như thế này:






--Về những cái dở của Tô Hoài, xưa nay
người trong giới chúng tôi không lạ. Nếu trong sinh hoạt cá nhân ông đã nổi
tiếng là một ông già thực dụng tham lam càm quắp, một con người rất trần tục,
thì về chính trị nhiều khi ông cũng cẩu thả, cơ hội, dám làm đủ thứ việc mà
chính ông rất khinh bỉ.






Có lần, nhân nói về trường hợp Nguyễn
Khải, tôi đã tính thử gọi ra cái căn bệnh phổ biến mà -- để khỏi dùng chữ điếm -- tôi tạm gọi là lang chạ
đó (xem Chất lang chạ trong
mỗi chúng ta
  trên blog này ngày 18-2-2012 ). Cái chất lang chạ này
trong Tô Hoài cũng rất sẵn.









 Nhưng từ lâu chúng tôi lại cũng biết
rằng ông vốn là một nhà văn biết gìn giữ lương tâm nghề nghiệp. Trong ông không
phải chỉ luôn luôn có hai con người như  nhiều người khác, rõ nhất là
Nguyễn Khải, là Chế Lan Viên… Mà trong ông còn luôn luôn có một con người chờ
đợi thời cơ để trình bày cho được những quan sát riêng suy nghĩ riêng về 
các vấn đề lớn nhất của cái cuộc sống xã hội.






Ông không chơi trò xếp hàng hai cửa.






Ông không loanh quanh lấp lửng vừa nói vừa
sợ.






Ông cũng không manh động chọc ngoáy liều
lĩnh rồi lại co vòi hối hận.






Ông có sự tính toán hợp lý của mình. Thời
gian chỉ càng làm tăng thêm độ căng, độ ráo riết trong tư duy ông, khiến người
ta có cảm tưởng ông bền bỉ đi trên con đường đã chọn.









Tôi cho đoạn viết sau đây của mạng Bauxite VN nói về Tô Hoài khi ông qua đời là khá
chính xác:






Là nhà văn tham gia cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám, nhiều
thập kỷ được rèn giũa kỹ năng viết “định hướng”, được mài xát bằng vô số cuộc
chỉnh huấn tư tưởng, nhưng Tô Hoài vẫn không bị cùn mòn trong tư duy nghệ thuật.






 Những năm hòa bình sau Hiệp định Genève, luồng gió tự do tư
tưởng của Nhân văn Giai phẩm đã gián tiếp thổi qua tâm trí ông, giúp ông sáng
tác được truyện dài Mười năm (1958), để sau đó bị trả giá bằng
những bài phê bình gay gắt.






 Sau thời Đổi mới, ông cho ra liên
tiếp ba cuốn truyện ký làm chấn động dư luận: Cát
bụi chân ai
, Chiều chiều, Ba người khác đưa lại một cách nhìn “phản tỉnh” về
những năm tháng cay nghiệt của một miền Bắc thực hiện chuyên chính theo đường
lối vô sản, cải cách ruộng đất ở nông thôn và “cải tạo tư tưởng tiểu tư sản”
trong hàng ngũ trí thức, nhà văn.






Bút pháp hồi tưởng nửa thực nửa hư, trữ tình xen trào lộng, hiện
thực giễu nhại cùng song hành... đã tạo nên trong tâm thế người tiếp nhận một
cảm hứng bột khởi, bùng vỡ bức xúc, nhưng không đổ vỡ mà lấy lại được sự thăng
bằng. Có thể nói Tô Hoài đã chuộc lại sự thanh thản, thiện lương cho chính mình
và cho bạn đọc.






  






    Trong nhiều lần trò
chuyện với tôi, Tô Hoài hay nói tới cái ý giá kể không có cách mạng thì chắc
nhiều nhà văn khác sẽ đi làm nghề khác. Nguyễn Đình Thi sẽ ra làm quan. Nguyễn
Văn Bổng sẽ là giáo sư một trường trung học nào đó. Chỉ riêng ông là thế nào
cũng trở thành nhà văn.






   Hiếm hoi lắm, lại có những
lần, cũng vẫn về nghề nghiệp, tự nhiên Tô Hoài ngả sang cái giọng ngùi ngùi.
Ông nói tới các bậc tiền bối, từ cụ Tản Đà mà chính ông không biết mặt, tới cụ
Hồ Biểu Chánh mà cái lần vào Dầu Tiếng 1942, ông đã ’”xông” tới tận nhà. Khoảng
cuối 1975, vào Nam, nếu như Nguyễn Tuân từ chối thì ông thản nhiên đến thăm Vũ
Bằng. Sau khi đi cải tạo về, ghé qua Hà Nội, Doãn Quốc Sỹ có đến tìm ông.
 Ông đã gặp nhiều người khác nữa. Nam có Bắc có. Bên này bên kia. Ông cho
người ta cảm tưởng là ông mãi coi những người ấy là đồng nghiệp, muốn tên tuổi
mình về sau được đặt bên các vị đó. 









Tôi biết là khi đề cập tới các mối quan hệ
này, trong tâm trí Tô Hoài đang theo đuổi một  ý niệm riêng về cách tồn
tại của người cầm bút. Ở cái quan niệm riêng đó có phần chung nhưng cũng
có phần xa lạ với cách hiểu của người đương thời, nhờ thế lại gần hơn với cách
hiểu của ông cha ta trong quá khứ.









Vậy là ông  muốn mình không chỉ thuộc
về đương thời mà còn thuộc về lịch sử.


Cuộc đời ấy bao hàm một sự lưỡng phân.


Để miêu tả ông, tôi muốn mượn ý tứ trong
bài thơ trên của Tadeusz Rozewwicz để đưa ra mấy câu gọi là cảm đề  hoặc một thứ  nhại một thứ
lẩy Kiều mà người xưa hay dùng:


Ông chẳng ưa ràng buộc, nhưng lại là  kẻ tự buộc dây vào mình






Ông  vốn dễ dãi và có lúc cả tin nhưng chẳng chịu tin cái gì
đến cùng






Ông tham gia vào sự  lừa dối nhưng lại lặng lẽ bóc trần sự
lừa dối






 Bao phen ông gục ngã, nhưng cuối cùng ông vẫn là người đứng
thẳng



Ông đã  ra đi, nhưng -- nếu có một vài nhà văn thời này còn lại -- bao
giờ người ta vẫn phải kể tên ông.








Đoạn tin trên báo
TT&VH sau đây của nhà báo Chiêu Minh chắc ít người để ý, nhưng đối với tôi
nó là cái tin ngắn hay nhất có liên quan tới ngày Tô Hoài qua đời:


Trong những năm cuối đời, viết văn vẫn là
cách để Tô Hoài neo mình lại với cuộc sống  xung quanh.






Ở tuổi 90 ấy, ông viết bộ 100 truyện cổ
tích cho NXB Kim Đồng với những cái kết rất riêng của mình.
Ở đó, Mỵ Châu không chết tức tưởi dưới lưỡi gươm của An Dương Vương.






Cô Tấm cũng không xả thịt Cám để làm mắm,
gửi cho dì ghẻ.






Hỏi vì sao viết vậy, [ trong nguyên văn dùng chữ lão VTN xin phép bỏ ] nhà văn chỉ cười.


Rồi, ông chuyển chủ đề sang cuốn tiểu
thuyết sẽ hoàn thành nếu điều kiện sức khoẻ cho phép:
 “Tôi muốn viết về Cách mạng tháng
Tám như những gì mình trông thấy. Ở đó không chỉ có khí thế ngút trời của quần
chúng mà còn có cả những chuyện dở khóc dở cười của những anh trí thức nghèo
đang lúng túng không biết chọn đường nào
 (Thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nha-van-to-hoai-qua-doi-da-di-roi-mot-nguoi-ha-noi-cu
n20140707073753506.htm )









 Mấy năm cuối đời Tô Hoài, tôi có ít
gặp ông, nhưng nhớ loáng thoáng là trong những dịp ấy, cũng đã mấy lần được
nghe ông nhắc tới cái ý định viết lại về Cách mạng.  Và đúng là viết với
cái nhìn “kiểu Dế mèn” như nhà báo trên TT&VH  vừa nói.






Tôi nhớ lại tiểu thuyết Mười năm.






Nhất là tôi nhớ lại tạp chí Tiên phong. Đây là tạp chí của Hội Văn hóa cứu
quốc in  ra trong khoảng từ 11/1945 tới 12/46. Thời gian đó Tô Hoài là
phóng viên của tờ Cứu quốc,
nhưng cũng hay viết sang Tiên
phong
. Trong bài ký này Tô Hoài kể chuyện người dân vào phá thành Sơn
Tây với thói tham lam và bộ mặt nhếch nhác. Ở đoạn ghi chép kia – với tư cách
phóng viên chiến tranh— ông ghi nhận rằng gọi là Nam tiến song thực
ra lúc đó cái chính là các ông đã sống cái cảm giác  ngao du lang bạt đầy
chất yêng hùng.






   






Còn như nhìn vào mấy cuốn sách cuối đời của Tô Hoài:






--Cát bụi chân ai viết về các sự kiện có liên quan tới những
năm tháng tìm đường và những đầu hàng cùng nhẫn nhục chịu đựng của cả một lớp
người cầm bút cũ hồi Nhân văn – Giai phẩm






-- Ba
người khác
 viết về Cải cách
ruộng đất. Trong tháng mười 2014, nhân triển lãm Cải cách ruộng đất, một số trang
của Ba người khác được trích ra in lại, cùng với nhật ký
Trần Huy Liệu, sổ tay ghi chép của Trần Dần và các trích đoạn trong Đèn cù.






Bây giờ lại cuốn sách về cách mạng. Nếu đã
hiểu con người nhất quán trong  Tô Hoài, sau những điều ông vừa nói ra,
chắc không khó khăn gì để đoán ra cả những điều ông sẽ viết. Ở mỗi thời điểm,
ông cảm được rất sớm cái khoảng trống vừa được mở ra.Việc nắm bắt cơ hội ở ông
đã thành một thứ năng khiếu.









Nhà nghiên cứu người Nga M.M. Bakhtin
thường cho rằng muốn hiểu biết một hiện tượng nảo đó, ta không được đứng từ xa
và có con mắt kính cẩn; mà phải có lối tiếp cận suồng sã. 


Cách tiếp cận đó được M.Bakhtin gán riêng cho tiểu thuyết, song sự thực nó đúng cho mọi kiểu nhận thức. 

Chữ suồng sã ở đây
không phải là đùa tếu lăng nhăng mà chính là buộc người ta phải gần gũi với hiện
tượng, đối thoại với chính các đối tượng mà người ta cần hiểu, -- bất chấp đó là đối tượng
nào, cao cả hay thấp hèn, kể cả những cái mà thường bị xép vào hạng cấm kỵ, tức các nhân vật và
các hiện tượng lịch sử.






Một số tác phẩm nêu trên của Tô Hoài  được coi như thành công,
chính là nhờ ông đã có
lối tiếp cận suồng sã rất nghiêm chỉnh mà Bakhtin khởi
xướng.









Tôi thường cũng vẫn dùng những chữ tiếc
thương khi đưa đám các nhà văn quen biết. Trong thâm tâm tự biết bên cạnh phần
xót xa thực sự của một kẻ “một lứa bên trời lận đận“, không khỏi có phần tôi
chỉ hùa theo mọi người, nói những lời sáo. Nhiều bậc đàn anh của tôi, kể cả
những người có tài nhất, ra đi khi đã hết lộc. Có người đã ăn lạm vào phần của
đám người đi sau. Không sợ mang tiếng tàn nhẫn thì có thể bảo cái phần tinh hoa
của họ đã chết khi họ còn sống và bạn bè đồng nghiệp chỉ đang đi sau những cái
xác.






Riêng với Tô Hoài thì khác. Ngày ông ra
đi, tôi  thầm nhủ với mình một điều xuất phát tự đáy lòng. Tôi tiếc.


Thứ Năm, 29 tháng 1, 2015

L. Aragon và những đau xót của một nhà thơ khi thay đổi niềm tin chính trị




Nói tới Eluard, thì ngay
lập tức người ta phải nghĩ tới L.Aragon (1897-1982).


Trên trang blog ngày
1-1-2015, tôi đã nhắc tới nhà thơ một phần, nay sẽ nói tiếp về ông.


Trước hết xin giới thiệu
một bài thơ của Aragon  thường trở lại trong đầu óc tôi, mỗi khi
nghĩ về sự vận động tư tưởng của bản thân và  một số bạn bè văn nghệ trong
những năm này.


Tiếp đó là một số 
suy nghĩ có liên quan tới bài thơ.


Sau cùng là một bài viết
ngắn về Aragon tôi đã viết từ 1997 .







****   [Không đề ]


Cuộc sống tôi trôi
qua  như những luống cày  bốc lửa trên bầu trời


Tôi nghe tận đáy sâu
tiếng bước chân mình vọng vang xa ngái


 Tiếng hát tôi
tưởng đã hỏng rồi đã xếp xó rồi  lại ngân lên lần nữa


Trên đầu ngón tay tôi
lặng lẽ tính những ngày những tháng những năm





Đối với tôi vượt lên sự
dối gian tràn đầy cuộc sống 


Chỉ có tình yêu tôi như
một cây sồi đơn độc 


Chỉ có tình yêu tôi run
rẩy một trò chơi


 Trên đời này,
ngoài nó ra chẳng còn gì, chỉ có nó mà thôi





 Tất cả những gì
tôi làm hướng tới em, là để cho em


Người làm vườn mỹ lệ đây
lá cuốn cả vào phòng


Những bài thơ tôi viết,
vẻ dại điên mỗi ngày lại hiện ra khuôn mặt mới


Tất cả để em yêu và mãi
mãi  yêu em.





Từ sự tồn tại của tôi,
như một chiếc gai cây, sự thất vọng lớn bật lên


Em làm quà cho tôi một
mặt trời ngữ ngôn sáng chói


Tất cả những gì tôi gọi
lên, có em trong từng bước


Em hồi phục trái tim
tôi, em nặn lại nó rồi




 Chuyện thật lạ
lùng hãy nhớ lại xem


Hầu như vào những năm
lớn khôn ai cũng ra đi lần nữa


Để  ghi lại những
chuyến đi, có thể vẽ cây vẽ cỏ


 Nhưng cần vẽ hơn
cả  chính là thế  giới bên trong của mỗi con người





Tất cả sự  ví von
đều vô hiệu, hình ảnh cần thiết chẳng tìm ra


Nung nóng mọi chữ nghĩa
lên vẫn không đủ nói về ngọn lửa


Trong những đôi mắt thẳm sâu, hạnh phúc và ngọn lửa chập chờn nhảy múa


 Có thể kể làm sao
với ai chưa thấy nó bao giờ





Hình như nhiều lúc tôi
quên mình nhiều đau khổ


 Thật đau điếng đi,
khi bẻ gẫy tay mình


Tôi ruồng rẫy thơ, như
với bạn bè dứt  mọi mối quan hệ


Nhưng con đường rồ dại
đời nào tôi chịu là chẳng có em





Tôi đã nói rằng thế giới
này chẳng có gì kỳ diệu


Cái đích mà tôi đi tới
thì không có tôi mọi người khác cũng đủ lo toan và công việc


Mỗi người trong họ nhìn
tôi như một kẻ bề trên


 Vâng tôi đã khóc
vì không có gì khác họ, nhưng là khóc trong tay em





Người ta nói với tôi khi
không có bánh mì câu chuyện về hạnh phúc chỉ chuyện huyên thiên


Bầu trời thấp xuống kia
buồn bã trong những giờ u ám


Và mỗi chúng ta sẽ sống
sao trong những năm cay đắng


Thế đấy


Nhưng tôi  nhìn
thấy một bầu trời khác rồi khi ở giữa tay em





Những đau xót của một
nhà thơ


khi buộc phải thay đổi
niềm tin chính trị


Số phận của phần lớn các
nhà thơ hiện đại là phải dính tới chính trị. Aragon lại có cả một mảng thơ lớn  liên quan đến sự dấn thân của ông trong chính
trị.


Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng –để ca ngợi cái tổ chức mà mình có mặt, còn câu
thơ nào hay hơn câu ấy.


Nhưng rồi, như rất nhiều
người cùng chí hướng của mình trong thế kỷ XX, sau đó, niềm tin của ông đã thay
đổi.


Luôn luôn ông là người
của sự quá đáng. Lúc tin ông cũng tin quá đáng,  mà sau đó không tin cũng
quá đáng. 


Về lý trí, ông chấp nhận
mọi sự thay đổi, trong khi  về tình cảm, ông như  muốn kêu trời, ông
như chết lặng đi vì  sự thay đổi đó với ông là quá sức.


Tôi vốn thích các nhân
vật đương thời coi là phức tạp, nên cứ để ý theo dõi ông mãi.


 Từ thời điểm của
thế kỷ XXI này nhìn lại, chúng ta có thể bảo là ông đã rất dũng  cảm. 


Con tim của ông đã được
một trí tuệ sáng suốt mách bảo để dám vượt qua lòng tin của mình thời trẻ, mà
làm một cuộc đảo ngược thiết yếu.


Nhưng hồi ấy, người ta
đã gán cho các ông đủ thứ tội lỗi, nào là suy đồi nào là phản bội, những cái
tội tầy đình  mà một người yếu bóng vía không chịu đựng nổi . 


  Run rẩy đớn đau,
nhưng Aragon đã thay đổi. Quá trình dằn vặt của ông được miêu tả  trong
cái công thức sau đây  mà tôi nghe được qua  lời kể của Nguyễn Thành
Long một nhà văn đàn anh hay đọc văn học Pháp đương đại “tối nào cũng tính
tới chuyện ra đảng, mà sáng nào lại cũng phải nghĩ lại là phải ở lại đảng để
đấu tranh cho niềm tin mới của mình”.


Từ trước 1975, đọc thơ
Aragon  trong giai đoạn ông có những chuyển biến trong niềm tin chính trị
mà bài thơ trên diễn tả, quả thật là tôi -- với tư cách một con người đang sống
ở Hà Nội,  cái xứ sở bị bịt kín mọi thông tin đa chiều  -- cũng không
biết là ông đúng hay những người chê trách ông đúng nữa.


Nhưng, những năm đó tôi
đã mang máng cảm thấy có lẽ chuyện chính trị ở một nhà thơ chẳng mấy quan trọng
như chúng tôi hằng nghĩ. Mà cái  cần được chia sẻ đặc biệt là người nghệ
sĩ đã thể nghiệm sự thay đổi ra sao. Tức là tôi  thích  tìm trong
những vần thơ  ấy ở cái khía cạnh tâm trạng của người đã tiêu hóa  sự
thay đổi của mình, cái dấu ấn nó để lại trong tâm trí nhà thơ. Đây mới 
chính là những bài học.





 Được viết ngay từ
1942, vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng được đặt sau một câu đề từ:


Than ôi! Như Tô phải hay
những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với
Đan Thiềm.


Câu nói nổi tiếng tới
mức nhiều người không đọc và không thích vở kịch nữa vẫn cứ hay đọc lại
nó.


Vả chăng sinh thời
Nguyễn Huy Tưởng, ông là một người phụ trách chủ yếu của Hội văn nghệ VN, nên
người ta cũng không bới ra làm gì.


 Chứ thử nghĩ kỹ sẽ
thấy, đây là một thứ tuyên ngôn nhấn mạnh tính chất phi tư tưởng của văn chương. 


Nhà nghệ sĩ không buộc phải bao giờ cũng đúng; nhiều khi họ đáng yêu đáng đọc lại ngay ở chính cái phần lơ mơ, kể cả cái gọi là sai
lầm của họ. 


Họ vẫn đáng trọng hơn những kẻ đúng, trung thành, nhất quán nhưng không có một thứ mùi vị gì .




Trong một lần trò chuyện
với nhà nghiên cứu thông thạo văn học phương Tây hiện đại Đặng Anh Đào, tôi nghe chị nói khẽ, nhưng  tha thiết
như một lời tâm niệm:


-- Với các nhân vật lớn,
chính nhân cách lại quan trọng hơn tư tưởng rất nhiều.





Đối chiếu với những vận
động trong tư tưởng của những người trong giới cầm bút chung quanh, tôi chỉ thấy người ta hoặc là
ù lì trơ tráo, bị ép chết trong những niềm tin hồi trẻ, hoặc là chuyển sang cái
trận thế đối ngược một cách quá dễ dàng, dễ dàng như người ta quay ngoắt một
chiếc xe đạp.


 Aragon, như trong
bài thơ trên đã  bộc lộ ông cho thấy một tâm thế khác.


Rồi ông cũng vượt lên
trên cái sức ép bão bùng cuả chung quanh đối với một người thay đổi.  Ông
tìm thấy một chỗ dựa cuối cùng ở tình yêu. Ông bảo tình yêu sẽ cứu rỗi
tất cả. Trong khi bảo mình như kiệt sức như tuyệt vọng, thì ông lại cảm thấy
mình mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Con người nhân bản trong ông đã thay thế con
người chiến sĩ. Mà cái phần nhân bản ấy mới là tinh chất làm nên một nhà thơ.





1-2015








Louis Aragon , con người
của những đam mê và lầm lạc


Ngay cả trong thời kỳ
kháng chiến 1946-54, nhiều văn nghệ sĩ Việt Nam theo tiếng gọi của kháng chiến
vẫn chuyền tay nhau báo chí sách vở viết bằng tiếng Pháp, để tiếp thêm cho mình
hiểu biết  và nghị lực.


Và trong những ngày đó,
bên cạnh những Maurice Thorez, Jolio Curie, Paul Eluard v.v... có tên một người
Pháp nữa, trở đi trở lại trong tâm trí nhiều văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam,
đó là Louis Aragon: một Aragon từng nát lòng vì Paris đang rên xiết dưới gót
giày phát xít khi "suối đã đục dòng chỉ lệ còn trong"; một
Aragon có thơ được in bí mật, được người dân trong vùng địch hậu chuyền tay
nhau và một Aragon ca ngợi Đảng của mình bằng những lời đẹp nhất:


Đảng đã cho tôi sáng mắt
sáng lòng


Trước như tuổi thơ tôi
nào biết được


.,.


Đảng đã cho tôi màu sắc
nước non nhà...


Lời thơ có gì gần gũi,
như chính nó được viết bằng tiếng Việt.


Nhưng đó không phải là
hình ảnh duy nhất về Aragon mà chúng tôi được biết. Từ sau 1956, khi mà nhiều
trí thức châu Âu trải qua những xao động lớn lao về tư tưởng, hoặc nói như chính
Aragon, khi mà gió đã xoay chiều, thì một Aragon khác lại hiện ra
với những người cầm bút nơi đây, Aragon của tiểu thuyết Tuần lễ thánh,
những tiểu luận như Tôi lật con bài của tôi, Phải gọi sự vật bằng cái
tên của nó
, và tập thơ Quyển truyện bỏ dở với bao đớn đau
day dứt:


Tôi chờ đợi
một trùng dương hạnh phúc


Một tình ái không vướng
dây trần tục


Suốt bình minh đến chiều
xẩm mơ hồ


Nhưng cuộc đời thực tại
chẳng nghe cho


Đời tạo những diệu kỳ
theo kiểu khác


Đào Xuân Quý dịch


hay:


Hạnh phúc là
một tiếng vô cùng chua chát


Ma quái nào che giấu
nghĩa làm chi


Tóc ảo mộng và bàn tay
huyền hoặc


Những cặp tình nhân ngày
xưa đã mất


Hạnh phúc như vàng kia
ôi tiếng dị kỳ


Nó lăn trên sàn như
chiếc nhẫn lăn đi





Ai nói đến hạnh phúc mắt
thường buồn da diết


Như tiếng than dài nỗi
tuyệt vọng chua cay


Dây đàn dứt trong tay
người đánh nhịp


Nhưng tôi cho hạnh phúc
con người là có thật


Không phải trong mơ
không phải trong mây


Mà nơi bến lạ bờ xa trên
quả đất này


Tế Hanh dịch


Cũng may là ngay từ
1960, một tập thơ riêng của Aragon, đã được in ra với sự đóng góp của một lớp
nhà thơ Việt Nam thạo tiếng Pháp. Đó là những Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận,
Tế Hanh, Đào Xuân Quý, Nguyễn Viết Lãm...


Nói may vì từ đó trở đi,
nhất là từ sau 1965, ở Hà Nội chúng tôi, Aragon chỉ được nhắc tới một cách nhỏ
giọt, và so với con người thật, và khối lượng tác phẩm đồ sộ của Aragon, thì
chúng tôi được biết là rất ít, quá ít nữa.


Song cái lạ là ở chỗ ấy,
có khi cái mà người ta không biết lại gần gũi hơn cái mà hàng ngày người ta vẫn
thấy: từ đó cho đến khi nhà thơ qua đời, và ngay cả những năm về sau, Aragon
trong một người như tôi đồng nghĩa với cả sự kiên trì làm người chiến sĩ lẫn sự
dằn vặt trăn trở tìm đường mà bất cứ ai, sống với nghề cầm bút, từng có lúc
trải nghiệm. Nhà thơ từng nói về mình, qua sự phân biệt với những người khác ở việc đi tìm chân lý.


"Tôi biết có những
người sinh ra với chân lý, từ trong nôi họ đã không bao giờ lầm lạc, vì họ đã
đến nơi rồi từ lúc còn thò lò mũi xanh. Họ biết điều gì là tốt, từ trước đã
luôn luôn biết như thế... Tôi không giống họ. Chân lý không được phát hiện với
tôi vào lúc chào đời. Tôi không được cha tôi, cũng chẳng được giai cấp của gia
đình tôi chỉ bảo cho. Tôi học hỏi được điều gì đều phải do lao tâm tổn trí, tôi
biết được điều gì đều từ kinh nghiệm xương máu mà ra. Không có một niềm tin
chắc chắn nào đến với tôi mà không phải qua con đường hoài nghi lo âu, đau đớn
của từng trải".


Thêm vào đấy, một Aragon
hào hoa phong nhã, Aragon trong mối tình điên dại với Elsa Triolet, Aragon và
cuộc tìm tòi một thứ văn xuôi ảo, trong những tiểu thuyết Giết chết,
Blanche hay lãng quên,
 bấy nhiêu hình ảnh nối tiếp nhau để làm nên
Aragon của một tình yêu không dễ dãi.


            
Có một mẩu chuyện tuy nhỏ mà khiến tôi nhớ mãi, mỗi khi nhắc đến cái tên
Aragon. Đây là câu chuyện liên quan đến nhà văn Nguyên Ngọc. Tác giả Đất
nước đứng lên
 thuộc loại cán bộ quân đội được điều động trở lại chiến
trường miền Nam rất sớm, từ 1962, và ông cũng thuộc loại ở đó kiên trì bậc
nhất. Từ trước 1975, nhiều lần cấp trên tỏ ý sẵn sàng để ông ra Bắc chữa bệnh,
Nguyên Ngọc vẫn xin phép được ở lại, chỉ yêu cầu thỉnh thoảng gửi vào cho ít
sách. Trong số những cuốn sách mà Nguyên Ngọc nhờ người bạn mình ở tạp chí Văn
nghệ quân đội 
 là Hà Trì gửi vào năm ấy (trước khi đi chiến
trường, có gì Nguyên Ngọc bó lại đem gửi Hà Trì cả), có một cuốn sách tiếng
Pháp. Cuốn này Nguyên Ngọc mua được ở Moskva trong một chuyến thăm Liên Xô
khoảng 1957-58 gì đó. Ấy là cuốn Le Roman innachevé (Quyển
truyện bỏ dở
) trong đó có cả những câu mà ở trên tôi vừa trích, và những
câu khác, đại loại:


Tôi nghe tiếng gà trong
cùng tận đau thương


Trong đổ nát tôi vẫn
mang chiến thắng


Dù xé rách những vì sao
xa vắng


Trong đêm dài tôi vẫn
chói vừng dương


Aragon trong chúng tôi
là thế. Có lẽ chính vì những vết thương mà thế kỷ đã để lại trong tâm hồn ông
và cả những vết thương ông gây ra cho chúng tôi - từ chỗ là một con người cuồng
nhiệt, đã có lúc ông trở thành tượng trưng cho một Juda phản bội (người ta cố
nhét vào đầu chúng tôi như vậy), -- mà Aragon càng trở nên gần gũi.


Sau này tôi còn được
biết thêm một vài nhà văn nhà thơ Pháp khác cũng sống trong thế kỷ XX lớn lao
và đau đớn này.


 Có người tỉnh táo
hơn, chắc chắn là nhiều người sâu sắc hơn, một số khác trong sáng và thuần nhất
hơn Aragon.


Nhưng đối với riêng tôi,
tác giả Quyển truyện bỏ dở vẫn là nhà văn Pháp thân thiết bậc
nhất. Hơn cả một giá trị tự thân, ông đã trở thành một điểm đối chiếu.


Khi giở các trang bách
khoa toàn thư văn học hoặc các bộ lịch sử văn học Pháp, thường tôi tìm ngay xem
trong cuốn sách ấy người ta viết về Aragon như thế nào, dài hay ngắn và lấy đó
làm thước đo để xác định những chuẩn mực mà tác giả cuốn sách tra cứu ấy theo
đuổi.


Trong sinh hoạt văn học,
đôi khi tôi cũng hùa theo mọi người để tìm tới những nhà văn được coi là mốt,
để khỏi mang tiếng tụt hậu. Nhưng lúc cần suy xét về đường dài, tôi thường chỉ
đọc đi đọc lại những người mà tôi cảm thấy gần gũi, họ ở phía trước của tôi và
có vẻ như cách tôi không xa, nếu cố gắng tôi có thể theo họ, đó cũng là con
đường để tôi tìm ra chính mình.





1997







Thứ Năm, 22 tháng 1, 2015

Xã hội Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII , dưới con mắt một giáo sĩ phương Tây


 Ghi chép từ cuốn                


Lịch sử tự nhiên dân sự và chính
trị xứ Đàng Ngoài


                                      Jerome  Richard 
-- Paris
1778





Lời dẫn


    Trong cuốn Tư liệu
văn hiến Thăng Long Hà Nội – Tuyển tập tư liệu phương Tây
 NXB Hà Nội 2010, nhà sử học Nguyễn Thừa Hỷ cho
biết trong việc cung cấp cho người đọc hiện đại những nét phác họa về Thăng
Long Kẻ Chợ thời Nam Băc phân tranh, thì  Lịch sử
tự nhiên dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài
của giáo sĩ Jerome Richard thuộc
loại tài liệu đáng chú ý nhất.




       Theo sự chỉ dẫn đó, chúng tôi tìm đọc và
 thấy rõ cách đây hơn hai thế kỷ, cuốn
sách đã được biên soạn theo hướng viết lịch sử xã hội là một việc mà ở
ta chưa ai làm, nên càng cần thiết phải đọc.


       Dưới đây là một số ý tưởng, một số nhận
xét của tác giả mà khi đọc sách tôi đã ghi chép lại và  thử diễn giải lại
theo cách hiểu của mình. Giới thiệu chúng ở đây, chúng tôi chỉ muốn chia sẻ một hướng suy nghĩ
trong khi làm việc, đó là muốn lý giải hiện
tại phải trở lại với lịch sử
. Và với cả cộng đồng, những nhận xét từ bên
ngoài nhiều khi đau xót, nhưng là cần thiết trên con đường tự nhận thức.




 Phần đầu của cuốn
sách dành để  miêu tả chung về nhiệt độ,
khí hậu, cư dân… của Đàng Ngoài, trong đó đoạn nói về Vịnh Đàng Ngoài kể là c
ó một hòn
đảo, được người Hà Lan đặt tên là Đảo
cướp
. Chủ đảo là một võ tướng lo thu thuế.





Các "đô thị" - chỉ là để
tập trung dân, mật độ ngang thành phố châu Âu. Các đô thị này chẳng có gì khác
nhau. Chỉ có Kẻ Chợ đáng gọi đô thị. Thành phố trật tự, nhưng có những trò kỳ cục như  bắn tên có
mồi lửa trong đêm vào các nhà rơm rạ gây ra đám cháy.





Người Trung Hoa có mặt ở khắp nơi trong cả vùng đồng bằng. Ở đô thị càng đông, mạnh.




Các loại phương tiện giao thông


-     
Ngựa: quan;


-     
chân trần: dân;


-     
cáng: nhà giàu, người có địa vị


Từng có cầu đá do người Trung Hoa xây rồi vì chinh chiến, bị
phá.


Vùng núi sống trong dốt nát và dã man. So sánh: lúc này ở
Trung Hoa đã có lúa vụ  ba. Nhưng ở Đàng Ngoài thì chưa. 


Do thiên nhiên chiều đãi, con người nơi đây tế nhị,
khéo léo nhưng yếu ớt và ít dũng cảm.





  Cách cư trú, phong
tục


Có khoảng 9.000 thôn xóm và 3.000 đơn vị phụ gọi là trại.


Dân miền núi bị coi là man di, nhưng theo các nhà truyền
giáo, trong các dân cư ở đây, người H'mông - nhiều nhân tính nhất. Họ ghê sợ
với tục lệ dân miền xuôi. Xứ miền núi này cung cấp những chiến binh dũng cảm
khi cần. Có người Tartar. Sống du cư, giỏi chữ Hán, giỏi buôn bán. (Có lẽ là
H'mông - VTNh)





Tính cách con người


Người dân đồng bằng bị các nhà truyền giáo coi là thô lậu,
cả tin, mê tín. Như một bọn du đãng, sông trên thuyền, trên sông. Thật ra không
phải vậy. Ở đây, dịu dàng và yêu thích bình yên là tính cách ngự trị. Cạnh đó
lại hiếu động hay bị chia rẽ - thường xuyên nổi dậy và mưu phản.


Dân chúng bị lối cuốn vào các cuộc nổi dậy đó như một trò
chơi, hơn là  bởi tham vọng hay tư tưởng
về một cuộc sống hạnh phúc hơn. Những vị quan đầu triều ( = những người ưu tú
nhất) không bao giờ tham gia các cuộc nổi dậy này.


Đặc tính người bên lương (thờ Phật )


- luôn luôn không hài lòng với hiện trạng


- ham tài sản, độc ác, phản trắc


- coi cuộc đời như một cực hình


- sẵn sàng phụ bạc vì món lợi nhỏ.


Nhà nước cấm đạo. Chính ra dân cư các làng xóm lại hay đi
tố giác để kiếm lợi. Sự mê tín + tâm lý vụ lợi 
= cuồng tín.





Giao thiệp với người
châu Âu
. Triều đình biết quá ít về những lợi ích
của mình  nên không buôn bán với người
nước ngoài.


Một số trao đổi lặt vặt chỉ nhằm thỏa mãn những ao ước rất
tầm thường: vài cái váy dạ, ít đồ gỗ. Vì người dân  không đi đâu nên những cái vớ vẩn đó cũng
thành hương xa hoa lạ. Xem chuyện nơi xa là hoang đường.





Ăn mặc: không tất,
không giày, không quần lót.


 Giày dép là để phân
biệt ngôi thứ:


- dân thường bị cấm.


- chỉ hạng tiến sĩ mới được dùng dép


- chỉ người hoàng tộc mới được đi giày.





Đời sống tinh  thần. Bộ máy quản lý


Nhìn chung dân có tinh thần sáng suốt, minh mẫn. Sẵn một
bản năng khéo léo, chỉ thiếu khoa học – sinh ra tính ỳ.


 Nhưng nghèo khổ quá
khiến người ta chỉ nghĩ đến sinh tồn tức là phó mặc mình cho sự biếng
nhác bẩm sinh. Bộ máy hành chính sẵn sàng “vét cạn” các mầm mống tài năng. Bộ
máy này ngu dốt và kiêu căng, nhưng có quyền lực. Họ đối xử với những người khéo
tay hơn họ và giàu hơn như nô lệ.





Quan lại đóng vai cái gì cũng biết hết. Thật ra họ không biết,
họ dốt song làm bộ làm tịch coi người khác như công cụ. Thuế rất nặng. Dân ở các vùng cằn cỗi
không nộp thuế bằng thóc gạo thì phải nộp bằng cỏ.


Việc quan: sáu tháng trong một năm. Hoặc việc công, hoặc đi
phục dịch các đức ông.


Sở dĩ chính sách khắc nghiệt  vì người ta cho là phải làm thế mới trị được
một đám dân hiếu động và dễ phản loạn.


Các ông chủ chỉ yên tâm nghỉ ngơi khi mọi người lao động làm
việc liên tục và chỉ có một đời sống tầm thường. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ
một số người thử vận may trong buôn bán.





Theo những mẫu mực Trung Hoa .


 Phong tục Đàng Ngoài bắt nguồn một phần lớn từ những tục lệ của nước Trung Hoa.


Người Hoa đã có một thời gian dài là chủ nhân
xứ Đàng Ngoài. Họ đã đưa vào đây luật lệ, ngôn ngữ, chữ viết, tôn giáo...Phong
tục Đàng Ngoài cũng có nhiều mối liên hệ với phong tục Trung Quốc.


Ngôn ngữ Trung Hoa là ngôn ngữ bác học. Nho sinh Việt Nam
gần giống Nho sinh Trung Quốc.


Vẫn có một thứ biệt ngữ. Một ngôn ngữ và một chữ viết
riêng xuất phát từ Trung Hoa.





Luật pháp


 Có luật, chẳng hạn luật cấm rượu nhưng ít được tuân thủ.
Luật chỉ có tác dụng với kẻ non gan. Ngoài ra, nói chung, không tuân thủ không
sao.


Sự phóng đãng được dung thứ, tức gần như được phép.


(VTNh:  Luật
chỉ  có
tính chất nửa vời)


- ít đi học vì nghèo


- Có hiện tượng bán con vì nghèo


- Nhận làm con nuôi quan chức để xin được bảo kê


Nạn vay nặng lãi phổ biến.


Người đi vay dễ vỡ nợ. Luật pháp đứng về phía chủ nợ. 





Văn hoá giao tiếp 


 Có sự phân biệt rõ ràng


- dân gian: buông thả


- quý tộc: nghi thức chặt chẽ hơn


Nhiều phụ nữ được coi là vô cùng dễ dãi. Họ buông thả mình
cho những người ngoại quốc với cái giá rất xoàng...


Quan to đi chơi bằng ngựa. To nhỏ dựa vào số người đi hầu
kèm theo hộ vệ.





Con người Đàng Ngoài không có xu hướng khám phá, không có
tính thần học hỏi, kể cả trên phương diện nghệ thuật. Nhưng lại thích -- với
những gì sử dụng hàng ngày và những cái đã biết -- chứng tỏ là mình xa hoa sang
trọng. Họ rất ham thích khoái lạc. Lý do: khí hậu nóng bức, đất đai màu mỡ, dễ
sống.


Người  ta quen với
chế độ chính trị chuyên chế; chịu đựng mà không thấy khổ. Biết nhà nước tự do
là hay hơn. Nhưng không đủ sức đấu tranh.


Một số dũng cảm khởi nghĩa, dân chúng có theo và người ta
hứa với họ đủ điều. Nhưng kết thúc bằng tái lập chế độ độc đoán.


Sau biến động, con người tự nhủ quá hạnh phúc khi có thể
trở về bình yên dưới cái ách vốn có từ trước.


Trong giao thiệp thăm viếng con người, tránh nói chuyện
buồn rầu. Không có đồng hồ. Thời gian chỉ được ước tính.  Ai cũng vậy.





Lễ hội 


 Phóng túng
quá đáng, đến mức suồng sã. Người nghèo cũng bất cần đời. Sợ ra ngoài mùng một tết - sợ điều xấu.
Bọn trộm rình rập khắp nơi, ám hại người trên đường.


Các làng quê có nhà hát trò, chèo tuồng. Các loại quần áo
rất kỳ cục,  vay mượn từ Trung Hoa nhưng lại làm xấu đi, quê kệch hơn. Nội
dung tích trò là ca ngợi vua chúa và người có công với nước, xen vào chuyện
tình yêu và chuyện phiêu lưu.


Trò chơi - chọi gà, câu cá.


Nhìn chung, khi không bắt buộc phải làm việc, những người
dân sống ở Đàng Ngoài yếu đuối và biếng nhác. Hạnh phúc lớn nhất của họ chỉ là
thoả mãn thói phàm ăn. Chỉ có những niềm say mê hầu như luôn có hại cho xã hội
(VTNh: những niềm say mê bệnh hoạn) mới kéo người ta ra khỏi tình trạng uể oải.





 Tôn giáo


Với quần chúng vô học, tôn giáo ở đây là thực hành mê tín.
Chẳng có gì là không có thể thành vật thờ cúng. Nhưng đối tượng của mê tín lại
luôn luôn thay đổi. Hôm nay được tôn sùng mai bị lãng quên, thậm chí bị phỉ
báng.


Không có gì lâu bền. Nên có thể nói chẳng có tôn giáo gì
cả. Chùa có ở mọi trấn, xã, song đều xây dựng cẩu thả, và trông thì xấu xí.


Rất nhiều thuật sĩ bịp bợm. Quyền lực của họ vươn từ những
người dân dưới đáy tới vua chúa.





Về Khổng Tử và Nho giáo


Các giáo điều chính:


- lưu ý sức mạnh trí tuệ. Đặt vấn đề có được hiểu biết bên
trong về sự vật


- nhấn mạnh chữ tâm


- đề cao lòng thành.





 Khoa học, kỹ thuật.


Khoa học - lo nghiên cứu bình chú Khổng Tử. Địa lý thiên
văn cổ lỗ. Lịch sử chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia.


- Không hiểu gì về thế giới.


- Giải thích về khí hậu rất nực cười.


Dân tộc này chỉ quen nhận thức những vật thể có hình hài
và cảm giác. Mọi biện luận siêu hình bị coi là vô bổ.


Dửng dưng với việc đi tìm chân lý, họ chỉ quan tâm tới
những quan nịêm mang tính đạo đức.





Giáo dục và thi cử


Tham nhũng, thiên vị, thiên kiến... là tình trạng bao trùm trong cả vương quốc.


Do đó các cuộc thi tiến sĩ dù cố tỏ ra nghiêm khắc cũng chỉ vô ích. Học hành chẳng theo chương trình nào. Khả
năng đỗ phụ thuộc trí nhớ  (chứ
không phải kiến thức). 


Người thi đỗ được miễn mọi khoản thuế. Địa vị quý tộc
không được truyền lại cho con cháu. Mà mỗi cá nhân, đến lượt mình, tự xác định
cho mình.





Học người xưa không hề có phê phán. Không học ngoại ngữ. Vua
có thông ngôn - tiếng Hoa, tiếng vài nước láng giềng, tiếng Bồ Đào Nha.


Người làm mỹ thuật tay nghề đơn sơ, ít khao khát hoàn
thiện; bó chặt trong quy phạm lâu đời. Khuôn mặt trên các tác phẩm điêu khắc
trông khủng khiếp và kỳ quái.


Mọi nghề nghiệp đều chỉ tiến hành với những dụng cụ đơn
giản như làm việc không cần thước.





Nội ngoại thương trong cái bóng của người Hoa


Nhiều tiềm năng. Nhưng chính quyền không muốn dân giàu sợ
thần dân một khi tích tụ tài sản, sẽ sinh tham vọng, kiêu căng không còn thói
quen phụ thuộc tuyệt đối, nh
ư là cái đảm
bảo cho sự cai quản của nhà vua. Cũng có những người giàu lên nhưng phải cống
nộp quan trên khá nhiều.


Ngay người Hoa cũng phải hối lộ quân vương. Thương nhân
bản xứ bị xem là đáng sợ nếu quan hệ với người ngoại quốc.





Các ngành thương nghiệp và thủ công nghiệp của người Hoa
tối cần đối  với sự sống còn của vương
quốc.


 Trong thương mại
của người Hoa có một ngành khá nổi bật: thuốc bắc. Ngoài ra, họ còn buôn bán
chè, đồ sứ, tơ lụa, vải, dùng bột mì, nồi niêu, đồ sắt.


Người Hoa không truyền nghề cho cư dân bản địa để giữ bí mật. Từ đó, người Việt có niềm tin
mình không thể làm gì bằng người Hoa.


Nghề người Hoa làm:


- khai thác hầm mỏ


- đúc vàng bạc


- khắc ván in, làm ra những cuốn sách.


Dùng sức mạnh tài trí, khiến người ta cần đến họ. Rất
nhiều mánh khoé. Sống ở Đàng Ngoài, người
Hoa bảo tồn trang phục. Họ là người
cung cấp hàng  cao cấp cho chính quyền và
đây là việc họ không thích nhưng buộc phải làm thì mới có quyền tha hồ bán các
loại hàng khác cho dân thường.





 Người Hà Lan từng làm một con đê ở đây.


Người Anh cũng mang đến các mặt hàng như người Hoa. Ví dụ
các loại đá quý, ngọc trai, nhưng đáng chú ý: đá giả mới bán chạy.


Dân nghèo quá, nhiều khi lại mua chịu và hay quỵt. Khi tàu
buôn đến, có lính đến khám. Tàu buôn phải giấu ngay các mặt hàng quý. Bộ máy
hành chính từ vua xuống tự cho mình quyền tha hồ quấy đảo đám lái buôn này.


Kỹ thuật đúc tiền kém cỏi. Tiền rất dễ thành vô giá trị.
Rồi tiền từ Trung Hoa tới -- "hiếm có quốc gia nào trên thế giới có quá
nhiều kẻ đúc tiền giả như vậy"


Mỏ vàng bạc chỉ người Hoa biết khai thác, và nộp cho chính
quyền bao nhiêu, là do họ tính.




Dân Đàng Ngoài hiếm khi sử dụng tới phép đo lường trong
buôn bán. Dùng tay để đo vải. Gạo đỗ, đong bằng khối hoặc ước lượng. Buôn thóc gạo bị cấm,
nhưng vẫn diễn ra khá sầm uất.


Mức lãi của người buôn lên tới 1/3, mặc dù vậy, người Đàng
Ngoài chỉ là "những tay buôn vô cùng kém cỏi".Buôn vải, tơ. Buôn quế -
vua độc quyền khiến  dân miền núi thành
kẻ buôn lậu. Đường cũng mua của người Hoa. Khai thác rừng tre  cũng tuỳ tiện. Ai
muốn, chỉ cần nộp ít tiền cho người quản lý hành chính là chặt thoả thích, hoặc
đốt, phá nhiều tre đưa trở về qua đường sông.


Đàng Ngoài có thể là điểm trung chuyển lý tưởng cho thương
mại Âu Á. Nhưng chính quyền sợ người nước ngoài nhân cớ đó để xâm lược. Đáng lẽ
phải ngờ người Hoa vì họ đã từng nắm giữ chủ quyền ở đây. Song vì lý do cùng
chung phong tục, tín ngưỡng… người Hoa không bị ngờ như người  châu Âu.





 Biến động  của quyền lực trong lịch sử


 Dù từng là một bộ phận của Trung Hoa, song đây vẫn là
một  sắc dân hoàn toàn khác biệt. Trung Hoa gọi họ là man di.


Thời đó người ở đây chưa có chữ. Dùng chữ Hán. Các thủ
lĩnh bản địa, tuyên bố mình là chủ nhân của mảnh đất này. Dân theo sự dắt dẫn
của họ, các thủ lĩnh thường có sự giúp đỡ của bọn du đãng. Nội chiến (12 sứ
quân). Lê Đại Hành xưng vương…


Nhà Minh sang, sau Lý Trần, thi hành luật lệ, phong tục,
cách làm ăn kiểu Trung Hoa “bắt dân chúng phải tuân theo một lối sống giống
nhau”. Nhờ vậy, một trật tự vững chắc được thiết lập và bảo lưu đến tận cuối
thế kỷ XVIII.





Dân chúng dù lấy làm tự hào tuân thủ các phong tục
và luật lệ của ông chủ phương Bắc nhưng nó không làm cho họ quên đi ký ức về sự tự do
xa xưa và mong ước trở lại.


Quan hệ  với Trung Hoa: có triều cống, nhận ấn phong vương
“coi như một dấu hiệu độc lập và một sự xác nhận với việc lên ngôi”; nhưng
không vì triều cống mà những vị vua này hoàn toàn không phải là những chủ nhân
ở đất nước họ.


Nhà Lê suy yếu.  Mạc
Đăng Dung (một “kẻ phiêu lưu”) cướp ngôi. Nguyễn Kim giúp khôi phục mang theo
sự hình thành thể chế nhà chúa. Trịnh Kiểm- người có tài năng và phẩm chất dị
thường, từng là thủ lĩnh bọn cướp.





Hình thành Đàng Trong. Nguyễn Hoàng vẫn thần phục nhà Lê
nhưng tự tuyên bố độc lập. Đàng Trong ngày một rộng lớn nhiều chúa tể nhỏ hơn, trở thành thuộc quốc của vị tướng này.


Ở phương Đông được
làm vua thua làm giặc
.
Còn ai cũng gian ác. Vua
là một danh nghĩa, giống như một đồ
trang sức.


Vua chỉ có quyền hão (Chúa quản lý hết và có quyền thế tập).
Vua ngủ say trong niềm vui thú và bạc nhược. Làm quen với sự thụ động và nhàn
rỗi. Dòng chúa tự sàng lọc, chỉ có người con kế vị có quyền, ngoài ra đa số bị
đẩy vào cảnh nghèo đói.
Một số bị điên.


Cả nước bị tàn phá bởi cuộc chiến,
đất đai bỏ hoang, nạn đói khủng khiếp. Trong khoảng 8 năm trời, 1/3 dân chúng
của vương quốc đã chết.





Lực
lượng quân đội


Do hoạn quan chỉ huy (chức vụ có
được là do mua). Nghề binh ở đây cha truyền con nối.





Luật
pháp
.


Luật Đàng Ngoài vốn được rút ra từ
luật của Trung Hoa. Luật cổ luôn quan tâm tới lợi ích của dân chúng. Người
nghèo cũng được bảo vệ.


Nhà vua được xem là người duy nhất
quan tâm đến lợi ích chung. Còn tất cả những người khác chỉ hoàn toàn chăm chú
đến lợi ích của riêng họ. Nhưng
ở  thời này, vua bị loại ra rìa, bị vô
hiệu hóa, cộng đồng này chỉ còn quỷ, mà chúa là tên quỷ lớn nhất.





Thói quen ăn hối lộ vững chắc trong quan chức. Có thể đạt với bất kỳ điều
gì bằng sức mạnh của đồng tiền. Người ta phải xuất vốn 20-30 ê-quy cho một chức
vụ.


Người hiểu biết phải kinh ngạc vì
bọn quan lại bạo ngược. Nhưng vua không biết gì hết.





  Nhìn
đại lược về hạnh kiểm của dân chúng thì sẽ thấy rất nhiều điều đáng phàn nàn,
và ngay cả ở những điều quan trọng nhất. Không có một dân tộc nào trên trái đất
này -- nấp sau vẻ ngoài trầm tĩnh và đức độ như người Trung Hoa -- lại gian xảo
hơn, vụ lợi hơn, phó mặc mình cho những niềm đam mê hơn và  hăng hái hơn trong việc thoả mãn bản thân.


 Họ luôn tìm cách lừa dối nhau. Đối với người
nước ngoài lại càng không có sự an toàn nào, nghĩa là luôn luôn trong trạng
thái ngờ vực.





Rất nhiều luật lệ, có những điều
luật thể hiện công lý nhân văn và từ thiện hơn luật pháp Trung Hoa.


Nhưng không phải chúng được thực
hiện. Các thẩm phán luôn luôn đứng về phía người có của. Tất cả đều có thể mua
bán một cách tuỳ tiện.





Có thời khoảng thế kỷ XVI (?) tuy,
đất nước thịnh trị, luật lệ nghiêm khắc. Nhưng một vị chúa đầu thế kỷ
XVIII  (70-80 năm trước khi xuất bản sách
này) đã thay đổi tất cả. Tăng thuế. Ngông cuồng hưởng lạc. Tăng cường quyền lực
cho đám hoạn quan đến mức vô bờ bến. Và tăng cả số lượng, tới mức chúng làm cho
đất nước trở nên nghèo đói.


Vết nhơ về sự chuyên quyền ghi sâu
trong đời sống toàn bộ dân chúng vì chẳng có cách gì để chống lại sự hám tiền,
hám quyền của bọn quan lại.





Ngoài ra những lo lắng, sự ngờ
vực, sự thiếu cạnh tranh đã bóp nghẹt mọi tài năng, căng thẳng tinh thần, làm
xẹp đi mọi tham vọng chính đáng. Người dân không còn nhìn đâu xa hơn cuộc sống
tầm thường quanh mình.





Nhà tù


Đó thực sự là một nơi khổ hình bất tận. Giường của tù nhân
chính là nền đất ẩm ướt. Đàn ông và đàn bà ở lẫn lộn và ngủ trong bóng tối,
bùn, và rác. Thường xuyên là người sống chung với những xác chết bị thối
một nửa. Cai ngục là bọn đáng ghê tởm.


 Nhưng đó là một
nghề được ưa chuộng. Người ta phải nhờ cậy chạy chọt mới có được chân cai ngục
và họ sẽ giàu lên bằng sự tàn bạo.





  Khả năng tự biến đổi , tự hoàn thiện


Chế độ chuyên chế tuyệt đối đã đối kháng với sự phồn vinh
của quốc gia. Nó làm cho trình độ sống của cộng đồng - chẳng hạn hoạt động kinh
doanh-- không bao giờ được nâng lên.




Ở đây, mọi sự vượt trội và một khao khát  mưu cầu danh tiếng đều dễ bị coi là một thứ
tội phạm. 


Đốn mạt nhất là những hoạn quan khóac đầy mình những chức tước. Chúng
tàn bạo và cho phép mình tha hồ cướp bóc công khai của cả quan chức lẫn dân thường. 


Vì rằng mọi tài sản đều là tạm
bợ  và những vinh hiển cũng chỉ có lúc,
con người sinh ra hư vô, họ cảm thấy  trước xu thế nghèo khó chung, rồi chẳng có gì
cứu được họ. 


Tuy nhiên nếu được cai trị tốt hơn thì dân chúng vẫn có thể tự
hoàn thiện và sẽ chẳng khó khăn gì trong việc yêu cầu họ thực hiện những đức
hạnh phổ quát hữu ích cho xã hội. 







 Bài đã đưa  lần đầu trên blog này , ngày 27-5-2011


  Trong những ngày tiếp chúng tôi sẽ có một bài
bàn riêng về








việc sử dụng các tài
liệu nước ngoài khi nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt