Thứ Ba, 24 tháng 2, 2015

Di sản giữa đời thường !


 





Nghề làm tranh dân gian của
làng tôi là một thứ đặc sản của văn hóa Việt Nam mà mức độ độc đáo có thể so với
rối nước, các điệu chầu văn, các làn quan họ. Đấy là điều không chỉ người trong
cả nước biết, mà khách du lịch nước ngoài cũng biết và dân làng tôi lại càng biết.





Mỗi lần về quê, tôi lại
được mấy ông thuộc loại đàn anh trong làng nhắc nhở:


 - Chú phải nhớ rằng tranh của Đông Hồ mình là
có mặt ở những bảo tàng lớn của thế giới kia đấy.


Tôi đi một số nước, chả thấy ở bảo tàng nào có tranh làng mình, nhưng không cãi lại. 

Chỉ tự nhủ có lẽ cái nơi có bày tranh Đông Hồ ấy thì mình lại chưa tới.

Sự hào hứng  cứ coi là có đi, thì cũng chóng tàn.

 Hơn nữa, là dân sở tại, nên
so với các nơi khác, dân làng tôi còn biết thêm một điều nữa có liên quan đến
di sản làng tranh. 


Ấy là mặc dù bàn dân thiên hạ cứ khen như vậy, cứ tự hào hộ
như vậy, và tết đến báo chí cứ viết dài dài về làng tranh xưa, nhưng chả ai mua
tranh mình làm ra cả!


 Cái cảnh tết đến, lái buôn các nơi về tranh
nhau lấy hàng, thuyền đỗ nườm nượp bên sông, và từng bó, từng bó tranh sẽ theo
sông nước tỏa đi khắp chợ cùng quê - cái cảnh ấy chỉ còn là trong tưởng tượng,
và thỉnh thoảng ông già bà cả có kể cho con cháu nghe, thì cũng chẳng khác chi
kể truyện cổ tích.




Thế vào chỗ tranh Đông Hồ
xưa, ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay, khắp chợ cùng quê bày bán các loại tranh in,
tranh phổ biến hiện đại, nhất là tranh Tàu.


So với tranh làng tôi làm
ra, thì các loại tranh thời nay giấy trắng hơn, màu đẹp hơn, nhất là nhiều hình ảnh
tân thời, chứ đâu quanh quẩn con lợn, con gà... Thành thử giá có đắt hơn tí
chút, người ta vẫn thích mua.


Rút cục, nghề làm ăn ở
cái làng nổi tiếng là có lịch có lề như làng tôi giờ teo tóp hẳn, chỉ còn một
hai nhà kỳ cạch làm thứ hàng thửa, hàng kỹ cho khách Tây đến xem và bán cho họ
theo giá hàng lưu niệm.


Nhưng không phải như thế
nghĩa là cả làng bó tay cam chịu, mà phần đông đã sớm tìm được chỗ để hướng sự
khéo tay và cái gu tuyệt vời của mình trong mỹ thuật vào cuộc kiếm sống - ấy là
làm hàng mã.


Đại khái sản xuất đủ thứ,
từ voi ngựa, xe máy, xe đạp, tivi, quần áo... tất cả trông cứ như thật, nhưng
thực ra là làm bằng giấy, cốt để các nhà giàu chung quanh Hà Nội mỗi dịp giỗ tết,
đốt cho người nhà của họ đang cư ngụ nơi âm phủ.


Thuyền bè sông nước cũng
không cơ động bằng chiếc xe đạp. Theo dọc sông Đuống, cả đàn bà con gái quê tôi
cũng đạp xe nhoay nhoáy, mang hàng đi phục vụ bà con buôn bán ở Hà Nội và các tỉnh
lân cận. 


Còn cái chuyện tranh gà, tranh chuột, mấy chục năm nay xếp xó, dân
làng cũng không lấy thế làm chán nản, ai hỏi vẫn tự nhận là dân làng Hồ, vẫn tự
hào về truyền thống làm tranh ngày xưa như thường.


Chỉ có những lúc mệt mỏi
quá trong cuộc kiếm sống - sau một chuyến chổng phao câu đạp xe giao hàng chẳng
hạn - những người biết nhìn rộng ra chung quanh mới chép miệng:


-- Chả bù cho làng người
ta! Cũng là di tích di sản mà chẳng phải đi đâu cả, cứ quanh quẩn đầu làng cuối
làng vẫn cơm giò cơm chả.


 Quả có như thế! Các làng chuyên nghề làm ruộng
tị với làng tôi, còn làng tôi thì lại tị với các làng bên huyện gần đấy, tuy
cũng được mang danh là di sản, song dứt khoát không nổi tiếng bằng, ấy vậy mà
dân sống mát mặt hơn hẳn.


 Nói nôm na là làng ấy có một ngôi đền, nếu
không phải DÂM TỪ
 [đền thờ mọc lên tự phát] thì cũng chỉ thờ một nhân vật loàng xoàng, và đứng về mặt kiến
trúc, chẳng có gì đặc sắc.






 Có điều, sự đời bây giờ ăn ở cái tiếng: chỉ nhờ
có cái tên gọi liên quan đến sự làm ăn mà cái đền giời ơi đất hỡi ấy tự nhiên
người đến lễ bái nườm nượp. Mới đầu chỉ đông vào tuần rằm mùng một. Sau gần như
ngày nào cũng có người đến lễ. Nhất là vào những tháng trước và sau Tết âm lịch
người đông như hội, người chật như nêm, vào đền rồi, có khi đứng hàng tiếng đồng
hồ hai tay mỏi rời với mâm lễ đang bưng, mà vẫn không lê nổi đôi chân đến bên
bàn thờ.


 Những ai đi lễ mà lắm thế?


 Dân buôn, tất nhiên rồi.


 Nhưng thời buổi này, quốc doanh không chịu kém
tư nhân về làm ăn, thì làm sao lại chịu kém tư nhân về lễ bái - nghe nói ở nhiều
công ty, anh em xúm lại chuẩn bị vàng hương để "sếp" đánh xe đi làm lễ.


Và thế là đền thiêng lại
thêm thiêng và gần như cả làng bên ấy sống về cái di tích văn hóa có khả năng
sinh lời đó.


 Đàn bà đi bán vàng hương, xôi bánh, hoa quả,
các thứ hàng cúng và không quên những thứ làm no bụng người đi thờ cúng.


 Đàn ông đi trông xe, đi giữ trật tự, người nào
có dáng nho nhã và khéo học lỏm một chút còn đi làm đơn, làm sớ.


Việc cho trẻ con cũng
không thiếu.


 Tan buổi học về - đây là nói những đứa chưa tiện
bỏ học - chúng sấp ngửa chạy ra trước cửa đền. Đồ nghề chẳng cần gì, chỉ có cái
miệng khéo nói, với lại đôi tay bưng bê chắc chắn, là tha hồ dắt khách, thu nhập
đằng thằng bằng mấy lương các ông cán bộ huyện!


So với người làng tôi,
thì dân cái làng có đền thờ quý hóa ấy chẳng những thu nhập có phần hơn, mà lại
được cái sướng là hành nghề tại chỗ, bám ngay vào di tích mà kiếm sống, chứ
không phải chạy rông ra mãi Hà Nội, và các tỉnh bạn, bởi vậy người làng tôi -
cái làng tranh nổi tiếng trên đã vào từ điển - mới suy bì tị nạnh:


-- Thế mới là di sản chứ!


Câu nói buột ra tự nhiên
song đằng sau đấy tôi đọc ra cả một quan niệm mà như tôi quan sát, nó đang ngự
trị dài dài trong đầu óc không chỉ người dân làng tôi mà cả vùng tôi và nhiều
vùng đất khác tôi từng có dịp ghé qua.


 Muốn có được định nghĩa rành rọt rằng di sản
là thế này thế nọ, hãy đi tìm các sách nghiên cứu dày cộp, các loại bách khoa đứng
tên toàn những giáo sư với tiến sĩ danh vang thiên hạ.


Người thường chúng tôi
không hiểu được cặn kẽ như vậy.


Thế thì giải thích tại sao cái việc  người dân làng tôi vẫn
thuộc vanh vách cái truyền thống làng tranh của mình?




Đơn giản lắm, chúng tôi đề cao truyền thống làng tranh vì nhờ nó nghề hàng mã ngày một phát đạt.


Làng tôi đã vậy mà các làng khác cũng vậy.  Do sống giữa đời thường nên  trong tâm trí chúng tôi thực ra nằm sẵn  một cách định nghĩa riêng về mọi chuyện. 



 Cái gọi là
di sản ở mỗi địa phương phải nuôi sống được dân sở tại. 


 Di
sản không được phép không sinh lợi!


Lý do khiến cho ở nơi này, di sản được chăm bẵm tươi tốt, nơi kia hoang vắng
điêu tàn, rút cục là ở chỗ ấy. 


Khi một di sản đã sinh lợi, nếu nó không thiêng
chúng tôi biết cách làm cho nó thiêng, không có lịch sử, chúng tôi sẽ làm ra lịch
sử.


Cả
làng cả nước mà đã đồng tình thì đâu có khó!



































































Đã in Nhân nào quả ấy,2002



Thứ Năm, 19 tháng 2, 2015

Làm sao để tác phẩm viết về chiến tranh còn được đọc lâu dài ?

Nhân đọc Xuân vọng một bài thơ Đỗ Phủ (712-770) viết trong

những năm chiến tranh - loạn An Sử đời Đường



春望

國破山河在,

城春草木深。

感時花濺淚,

恨別鳥驚心。

烽火連三月,

家書抵萬金。

白頭搔更短,

渾欲不勝簪。



Xuân vọng

Quốc phá sơn hà tại,

Thành xuân thảo mộc thâm.

Cảm thì hoa tiễn lệ,

Hận biệt điểu kinh tâm.

Phong hoả liên tam nguyệt,

Gia thư để vạn câm (kim).

Bạch đầu tao cánh đoản,

Hồn dục bất thăng trâm.






Trông xuân

hoặc Đối diện mùa xuân-- dịch nghĩa

Núi sông còn mà nước đã mất,

Thành ngày xuân hoang tàn, cỏ cây rậm rạp.

Cảm thương thời thế, con người nhìn hoa mà mắt ướt lệ,

Buồn vì ly biệt, nghe tiếng chim hót cũng thấy ghê sợ

Khói lửa báo giặc giã cháy suốt ba tháng liền [nghĩa là còn đánh nhau nữa].

Thư nhà lúc này ngàn vạn cũng không mua nổi.

Gãi mái đầu bạc thấy càng thêm thưa, ngắn,

Muốn cài trâm mà chẳng được.





Bản dịch khuyết danh:

Nước mất, còn sông núi

Thành xuân cỏ chất chồng

Hoa thương thời nhỏ lệ

Chim giận biệt đau lòng

Khói lửa liền ba tháng

Thư quê đáng vạn đồng

Bạc đầu cùn mái tóc

Trâm bạc khó cài xong



Bản dịch Khương Hữu Dụng:

Nước mất nhưng núi sông còn,

Thành xuân quạnh quẽ um tùm cỏ gai.

Cảm thời, hoa để lệ rơi,

Biệt ly hoa cũng vì người xót xa.

Tháng ba rồi đến tháng ba,

Thư nhà buổi loạn đúng là vàng muôn.

Gãi đầu tóc bạc thêm cùn,

Búi lên sổ xuống, trâm luồn lại rơi.



Bản dịch Nam Trân tức Tương Như :

Nước mất còn sông núi

Thành xuân cảnh um tùm

Biệt ly lòng chim hãi

Cám cảnh lệ hoa tuôn

Lửa hiệu liền ba tháng

Thư nhà đáng mấy muôn

Gãi hoài cùn tóc bạc

Chừng tuột chiếc trâm luôn



Mấy lời chú giải và bình luận

Tôi đọc bài thơ này lần đầu qua cuốn Thơ Đường tập II (1963), chỉ láng máng cảm thấy thích vì nghe đâu nó được coi là một trong những bài hay nhất của kho tàng thơ đời Đường và đã đưa vào Đường thi tam bách thủ.



Theo Wikipedia tiếng Việt Đường thi tam bách thủ (chữ Hán phồn thể: 唐詩三百首) là một tuyển tập gồm hơn ba trăm bài thơ Đường do học giả Tôn Thù (1722-1778),còn được biết đến là ‘Hành Đường thoái sĩ’, tuyển soạn vào khoảng năm 1763 thời nhà Thanh.



Tới những năm chiến tranh 1964-75, đọc lại mới thấy thấm thía.

Trong cái non nớt của tuổi trẻ, hồi ấy tôi chỉ thích mấy câu ba bốn.

Các bản cũ ở VN thường giải thích hai câu ba bốn này như sau "Cảm thời thế nên hoa đầm nước mắt – Đau biệt ly, chim cũng khắc khoải lòng"(Thơ Đường tập II ).

Từ đó ta hiểu sự buồn bã lan từ khung cảnh văn hóa sang khung cảnh thiên nhiên, và về tu từ tức là một biện pháp nhân cách hóa đã được sử dụng



Ở phần dịch nôm nói trên, sở dĩ tôi ghi Cảm thương thời thế con người nhìn hoa mà mắt ướt lệ, / Buồn vì ly biệt, nghe tiếng chim hót cũng thấy ghê sợ

là do đọc theo mấy bản Đường thi tam bách thủ do Trung quốc làm mà tôi đang có trong tay như bản của Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 1993, bản tân tuyển của Nhân dân văn học xuất bản xã 1998, bản của Thời đại văn nghệ xuất bản xã, 2003…

Bản làm cho thiếu nhi của nhà Bắc Kinh thiếu niên nhi đồng xuất bản xã 1996 thì viết “Hoa [vẫn đẹp thế ] khiến cho con người rơi lệ, chim [vẫn vui thế] làm cho người đau lòng”, cũng gần với các ý trên.



Nhưng hay nhất trong Xuân vọng chính là hai câu đầu và đây là điều mà mãi sau chiến tranh tôi mới hiểu.

Quốc phá sơn hà tại Chỉ có năm chữ mà phác họa ra cả khung cảnh chiến tranh và cái hậu quả tổng quát của nó.

Cái làm ta cám cảnh chính là tình trạng nước đôi, tất cả dường như còn, mà tất cả lại đã mất hết. Cái còn chỉ làm tăng thêm vẻ bi thảm mà cái mất mang lại. Theo cách hiểu này, bài thơ toát ra một tinh thần nhân bản rất hiện đại.



Tất cả dường như còn, mà tất cả lại đã mất . Có lẽ đây cũng là tâm trạng khiến cho một ai đó đã thốt lên rằng, trong chiến tranh không bao giờ có kẻ chiến thắng với nghĩa trọn vẹn của chữ ấy.

Kẻ thù của ta càng dũng mãnh thì chiến thắng của ta càng thêm vẻ vinh quang, cố nhiên rồi. Nhưng để thắng một kẻ thù dũng mãnh như thế, hẳn ta đã trầy da sứt vẩy và trở nên thân tàn ma dại.

Sau chiến tranh, bên thắng cuộc lại thường có tính hiếu thắng tưởng mình làm gì cũng được. Họ sẽ thua trong công cuộc hồi phục là vì vậy.

Hai câu cuối bài thơ nói đến một thứ buồn bã mà con người không sao vượt lên nổi. Con người lúc này đã tiều tụy thân thể hao mòn tinh thần bại hoại, cảm giác cuối cùng còn lại chỉ là sự bất lực.



Thế hệ tôi vừa trên dưới hai mươi thì bắt đầu cuộc chiến tranh quyết liệt mà mãi tới 4-1975 mới kết thúc. Một số chúng tôi lại có trong tay ngòi bút, chúng tôi làm thơ làm văn viết sách viết báo. Viết để làm gì? Hồi ấy cả bọn chúng tôi sống theo mệnh lệnh là viết để động viên người lính ở chiến trường. Chúng tôi không có thời gian và cũng được hướng dẫn là không cần biết là người xưa đã viết về chiến tranh như thế nào.

Thơ làm hồi chống Mỹ in ở Hà Nội thường kỵ nói về cảnh tàn phá và lại có một thứ luật lệ cấm tiệt các nhà thơ không được nói đến nỗi buồn.

Ngày nay đọc lại một bài như bài Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật -- bài thơ được đưa vào dạy ở nhà trường -- không những thấy ngớ ngẩn vì câu lý sự cùn Không có kính không phải vì không có kính – Bom giật bom rung kính rụng mất rồi --, mà còn thấy giả tạo thô thiển trong cái câu tả thái độ con người được trưng ra như một niềm tự hào – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.



Trong hoàn cảnh ấy, tôi thường nhớ lại Xuân vọng trên đây của Đỗ Phủ như một sự miêu tả khái quát về chiến tranh.

Dường như bắt đầu bài thơ, Đỗ Phủ đã chìm trong cảm giác buồn bã và ông đã để mặc cho dòng cảm xúc của mình trôi nổi, đến nỗi người ta thường cảm thấy hụt hẫng khi đọc đến những chữ cuối.

Hụt hẫng chốc lát mà bâng khuâng lâu dài.

Nhà thơ không lo lắng xem mình viết thế này đã đúng niêm luật chưa, nhất là không tính viết để làm gì, mình đang thuộc về bên nào, bên thua hay bên thắng. Ông chỉ ghi lại một cảm giác mà con người xưa nay ở địa vị ông thường trải nghiệm. Con người gánh chịu chiến tranh trong các thời đại về sau đều tìm thấy mình qua thơ ông, dù bài thơ được ông viết tính tới nay đã trên ngàn năm.

Thứ Ba, 17 tháng 2, 2015

Truyện ngắn CHỢ TẾT của Nguyễn Minh Châu

Ngưng đọng bế tắc trì trệ -- đó là cảm tưởng bao trùm tâm trí  nhà văn Nguyễn Minh Châu khi ông nghĩ về xã hội Việt Nam sau chiến tranh và điều đó được khắc họa đậm nét qua thiên truyện viết từ 2- 1988 mà  dưới đây là văn bản tôi muốn các bạn cùng đọc lại.
Sau bài Tiếng kêu thảng thốt cuối cùng của Nguyễn Minh Châu, khi làm công việc xoát sét lại bản đánh máy Chợ tết , tôi nhận ra tác phẩm có một sức khái quát khá lớn.
 Không chỉ cái hồn cốt bao trùm khung cảnh sự vật mà như từng nhân vật trong truyện cũng quy tụ về chủ đề  chính.

Hãy chú ý rằng hai lần tác giả chỉ ra sự lặp lại đến không ngờ giữa các thế hệ. Ông lái đò nay làm người đi xa về tưởng là ông lái đò xưa còn sống, hóa ra chỉ là con trai ông ta. Mà giữa cô bé bán báo và  mụ Tề bán cá, hai mẹ con tưởng là khác nhau bao nhiêu,  hóa ra vẫn chung những nét quen thuộc làm nên thân phận người phụ nữ trong một xã hội lạc hậu.
 Khi bảo rằng thời gian chỉ để lại trên hình vóc bóng dáng con người những dấu vết của tàn phá tức là trong tâm trí nhà văn đã ấp ủ một điều không tiện nói ra: chiến tranh đã làm cái công việc nó vẫn từng làm ở mọi nơi khác; trải qua chiến tranh, xã hội ta đang lê lết trong một tình trạng trung cổ và không tìm đâu ra những yếu tố mới để tạo ra một sự phát triển đích thực.
Một khía cạnh cũng khiến người đọc hôm nay có thể bất ngờ là cái phương cách giải quyết tình hình  mà --  dù không thích nhưng nhân vật Định vẫn thấy không thể có cách nào khác,  đấy là bạo lực. Bạo lực sẽ khiến cho sự hỗn loạn tan nát này bị tạm thời đẩy lùi, dù sau đó lại chìm sâu vào trì trệ chắc chắn hơn. Với việc nhắc lại mấy lần chi tiết ngọn roi đuôi cá đuối của lão coi chợ, và cả cái triết lý cai quản chợ búa của lão nữa,  tác giả như đã thông qua cái chợ để nói lên  tình hình chung của xã hội hậu chiến.
Ngoài những tác phẩm viết trước 1975, Nguyễn Minh Châu còn có những tác phẩm viết sau chiến tranh được dư luận mấy chục năm nay công nhận và coi như một bước phát triển mới của ngòi bút.
 Nhưng công nhận là một chuyện còn chỉ ra đâu là những thay đổi cốt tử ở nhà văn, lại là một chuyện hoàn toàn khác.

 Theo tôi, việc một thiên truyện như Chiếc thuyền ngoài xa được mang ra giảng dạy ở trường phổ thông nên coi là chưa xác đáng với nghĩa nó chưa nói được cái mới mẻ dứt khoát giống như một sự đảo ngược ở  Nguyễn Minh Châu sau chiến tranh.
 Trước khi  cho những ý nghĩ trong bài Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa  hiện hình trên mặt giấy ( báo Văn Nghệ  5/1201987), nhà văn đầy tâm huyết này đã nhủ thầm trông đầu óc mình nhiều lần và cũng đã có những sáng tác để ghi nhận bước chuyển biến dứt khoát trong tư tưởng của mình.
Nên có thể nói những tác phẩm đáng lưu ý của Nguyễn Minh Châu sau 1975 chính ra phải là Khách ở quê ra, Cỏ lau, và cũng nên kể cả Chợ Tết  mà do sự xuất hiện lẻ loi, lại chỉ có một số phận rất bạc bẽo.  
 Khoác ba lô đứng bên chiếc cầu gãy giữa làng mình, Định nhìn thấy một ngọn roi bằng đuôi cá đuối quật vun vút vào không khí phía trên đầu đám người đang họp chợ.

Cũng chẳng nhìn rõ mặt mũi một ai, chỉ thấy lố nhố một đám nón, rặt nón mê xỉn một màu lúi húi cúi xuống những cái mẹt cá.
- Hai, bốn, sáu,... Quân tuyệt tự tuyệt nọc... tám, mười... -- đám đàn bà kẻ biển cùng kẻ buôn chẳng kịp ngẩng lên, buông một tiếng rủa giữa lúc mải miết đếm cá.
- Mày còn chửi cà. Mày là đứa nào? Ngọn roi quất xuống một nhát trên chóp một cái nón mê đã bật vành. Lập tức một cái mặt đàn bà ngẩng lên, một mớ váy, yếm cũ rách phấp phới bật vùng dậy giật phắt lấy thanh roi trên tay lão già mặt đỏ gay mắt trắng dã.
Lão đàn ông kia đâm quàng bỏ chạy, miệng kêu: "Ả đuổi tui, nó lấy mất hết cá cà!".
 Bị mụ đàn bà rượt một vòng, nhưng khi chạy qua trước mặt Định,  lão đàn ông tự nhiên đứng sững lại.
- Chao ôi kìa bác Đất - Định la to - em tìm vào nhà thờ họ chẳng thấy anh, phải ra đây. Mụ đàn bà rượt tới, mớ yếm áo tanh rềnh mùi cá tươi cũng dừng lại, có vẻ nhận ra Định, vừa ngỡ ngàng mừng rỡ, vừa xấu hổ.
Định nhìn. Thoạt đầu chẳng nhớ ra ai. Trên mười năm nay Định mới đảo qua làng vài lần, mà lần nào cũng vội vội vàng vàng y như cái lần cuối năm này. Chỉ láng máng nhận thấy chắc xưa cũng là một người con gái có sắc ở trong làng.
Mụ đàn bà mỗi lúc một xấu hổ. Mụ vứt chiếc roi xuống chân người đàn ông rồi y như người đang đi trốn, cắm đầu chạy.
 Đến lúc bấy giờ Định mới sực nhớ.
Trong bụng toan chạy theo nhưng lại sợ chỉ làm nguời đàn bà  thêm xấu hổ.
 Từ trong xa xôi, Định nhớ lại một ông chú họ rất hiền hay mặc chiếc áo lụa mỡ gà thường ngồi sau một hàng ngăn kéo dán những tờ giấy đỏ viết tên các vị thuốc bắc và tà áo dài trắng của Tề có rây vài vệt mực tím từ trong dãy phố chợ đi ra giữa hai hàng cây chè tàu. Nhưng quả táo tàu cất trong cặp sách Tề hay dúi cho Định. Chắc chắn giá không có họ với nhau thì Định đã lấy Tề.
Lão Đất cười, há cái miệng đỏ hỏn như miệng trẻ con mới đẻ phả đầy hơi rượu một hồi lâu sau mới thốt ra được mấy tiếng lắp bắp. "Con Tề. Con Tề con nhà chú Lưu chả lẽ chú Định không nhớ?", rồi hỏi:
- Anh em nhà chú ngoài ấy có nhận được cái giấy tôi đánh ra không?
- Có, Định đáp, vì thế mà áp tết em cũng phải ghé về. Xem ở nhà cần công việc gì.
- Chú đã đảo qua lên chỗ thằng Khúng chưa?
- Chưa.
- Ở nhà anh em vừa bàn kỳ này dựng lại cái nhà thờ họ, lại còn hai cái mả của ông bà thân sinh chú, hồi này thằng Khúng nó ít về làng quá, tui đã đắp nhiều bận nhưng trâu bò nó phá tợn lắm.
- Em ơn anh. Trưa nay em nhờ anh dẫn ra ngoài mộ... Nhà anh bây giờ ở đâu?
- Đây, đây. Thì tui đang dẫn chú về. Ở nhà tui chơi ra ngoài giêng tế tổ rồi hẵng đi.
Ông anh họ cắp ngọn roi cá đuối vào bên nách, cánh tay bên kia quắp lấy cánh tay Định lôi đi giữa hai hàng nón vẫn cúi gập xuống lúi húi trên những mẹt, những thúng cá.
"Vào trong chợ. Vào trong chợ hết không thì chết!" Lão Đất giắt Định len bàn chân vào được đến đâu lại tiếng quát thét đến đấy.
 Chẳng một ai thèm nhúc nhích.
 Mấy lần đã toan rút thanh roi ra nhưng chắc hắn ngại có Định bên cạnh nên lão Đất chỉ khuỳnh khuỳnh cánh tay rộng hơn để thị oai, đi qua mẹt cá nào lão lại lấy bàn chân đá nhẹ một cái, gọi tên từng người mà bảo: "Vào trong chợ. Vào trong chợ mà họp không thì chết!"
Rồi bất ngờ lão quay hẳn người về sau, rút chiếc roi kẹp trong nách, quắc mắt dứ dứ về phía chiếc cầu gỗ dài chưa đầy chục thước đứng cao chênh vênh giữa trời đã bị tàu bay Mỹ cắt làm đôi, lão lại nhắc lại cái câu ban nãy bằng giọng hăm doạ tợn tạo hơn.
 Dưới chân cầu toàn cọc sắt lừ đừ.
 Từ bên kia trôi sang một chiếc đò gỗ nêm đến chật ních người đi chợ bán cá, hai bờ sông nhầy nhụa bùn nước mặn khoảng cách khéo lắm chỉ dài gấp đôi thân con bò.
Dòng sông nước mặn như khúc lòng lợn lượn vòng vèo dưới chân cầu, trịnh trọng chảy qua một cái bến lát đá Thanh trước cổng ngôi đền làng. Cái "bến đền làng" nổi tiếng ấy chắc Tề còn nhớ, Định thầm tự hỏi, hai đứa có lần rủ nhau tụt xuống ngồi tận hàng bậc đá cuối cùng, vừa ăn những quả táo tàu, vừa nhìn ra những chiếc thuyền chở vôi, chở nước mắm đều gác mái chèo, chỉ chống sào để khỏi làm kinh động ngôi đền - bây giờ những hàng ván bia gỗ dựng xen với hàng rào nứa chạy dài ôm bọc suốt cả bốn mặt ngôi đền linh thiêng như những dãy hàng rào chống thú.
Định ngơ ngác. Những luỹ cây um tùm đầy huyền bí không còn. Ngôi đền làng không còn. "Công ty ngoại thương hải sản" chỉ còn mấy chữ treo trên ba lối của của ngôi cổng đền sụp đổ. Định ngơ ngẩn dừng chân cố tìm hai bức hình đắp nổi "ông Thiện" và "ông Ác" đứng dựa lưng vào bức tường cổng đền làng nhìn ra khúc sông, trong khi đọc hàng chữ kẻ nguệch ngoạc trên một tấm gỗ mộc.
Lão Đất đưa Định về đến nhà.
Lão chống thanh roi đứng giữa nhà kiêu hãnh nhìn theo Định đang ngắm ngôi nhà của mình. Một cái nhà hầm nửa nổi nửa chìm. Nửa nhà ghép bằng những tấm ván tháo rời từ các hòm chứa đạn pháo cao xạ, một nửa nhà ghép bằng gỗ ván thuyền bị tàu bay Mỹ bắn cháy dọc các bờ bãi.
 Ở ngoài Hà Nội, từ nhiều năm Định đã biết cái nhà thờ họ thuộc chi thứ của mình bị trúng bom.
 Lão đất đã cất công khuân về bảo quản ở đây.
 Một đống gỗ, toàn gỗ lim, cái kèo, cái cột, cái trạm trổ, cái chỉ bào xoi chất một đống áp trước cửa.
Định nhìn thấy giữa đống gỗ một hai bức ván chạm long, quy hai lớp, và một cây cột to lại dài như cột đền. Chắc là lão Đất đã lấy của đền cho cái nhà thờ họ sắp dựng lại.
Bên trong nhà bày biện y như một viện bảo tàng chiến tranh. Vì đây nguyên là ngôi nhà sở chỉ huy của một đại đội pháo cao xạ 57 bảo vệ vùng biển. Trên bức vách gỗ hòm đạn còn lưu lại một hàng tờ giấy to vẽ đường bay của địch từ ngoài biển lao vào, từ trong Cầu Bùng ra, từ trên rừng lạc xuống.
 Lão Đất quả là một trưởng họ không thể chê vào đâu được. Những cái gì bài trí trong ngôi nhà thờ họ trước đây còn giữ lại được sau trận bom đều được lão sắp xếp gọn ghẽ trên một chiếc hương án và một chiếc án thư kê sau lưng hương án, đúng như sự sắp đặt trong ngôi nhà thờ ngày trước. Thành thử trên cái nền nhà, chỗ để ở chẳng còn mấy.
Định ngắm hồi lâu một bức ảnh đóng khung treo giữa bức vách ván truyền, hai bên cắm hai bông hoa giấy. Mũ bình thiên, quân hàm vai, hai "miếng tiết"tô phẩm đỏ trên hai ve áo quân phục.
Chủ nhà vừa chạy ra bên ngoài trở vào, ôm bên nách cái chai, miệng há ra một hồi mới nghe tiếng hỏi:
- Chú biết ai đó không?
- Cháu Đất. Chúng em ở ngoài đó có biết tin buồn cháu Đất hy sinh...
- Thằng Đất, thằng con đầu của tui nó hy sinh rồi chú Định ạ. Nó mất trong nam.
Định biết ông anh họ mình có những ba đời vợ, người kẻ ruộng, người kẻ rừng, người kẻ biển, vì thế mà con cái đông, Định không biết xuể. Định chỉ nhớ mặt hai người đầu là thằng Đất và con Cát. Còn cả một dây sau lão cứ thứ tự mà đặt tên theo câu "Non xanh nước biếc". Những đứa sinh sau cùng phần lớn với người vợ kẻ biển hiện giờ, chắc là về già nguồn thơ văn của lão đã cạn cho nên chúng mang những cái tên ít hay.
- Nhà đi đâu hết cả, anh? Định hỏi.
- Cả nhà tui sáng nay đang mở chiến dịch vây ráp - lão Đất đưa mắt nhìn ra trước nhà, thở dài hắt ra - đó chú coi, phiên chợ ba mươi Tết, lều quán đã dựng xong, đàng hoàng to đẹp như vậy mà cả nhà tui toả ra lùa khắp các ngả trong làng như lùa giặc, chúng nó vẫn không chịu vào họp. Bạ đâu họp đó. Chú Định, chẳng lẽ chú cũng không còn nhớ cái chợ làng ta chính là ở tại đây hay sao?
Định leo lên cái gờ đất uốn hình vành khăn, cao như bức thành, chân gờ đất choãi ra đạp cả vào bức vách gỗ bên hồi nhà.
Đứng trên bờ thành công sự, khẩu đội pháo bộ đội đã rút đi từ lâu nhìn ra tứ phía, cái chợ lâu đời ngày xưa bây giờ chỉ thấy hố bom, những đường giao thông hào nói liền ba ụ pháo cao to sừng sừng như quả núi, một ụ nằm tận sát ngoài bến đò chợ.
Trên nền đất lồi lõm, mấp mô mới dựng lên chơ vơ hai chiếc lều bằng nứa lợp phên tranh.
Mới thấy dọn trong một ngôi lều là một cái sạp sách của cửa hàng sách quốc doanh, mặt hàng chủ yếu được bày là những bức tranh cá chép, tranh mâm ngũ quả, cùng mấy bộ liễn.
Tận góc khuất một ngôi lều khác là một lão thầy bói mặc chiếc áo Tôn Trung Sơn mầu xám như một cán bộ thuế vụ, chẳng biết sáng hay đui, mắt kính đen ôm nửa mặt, hai bàn tay rờ rờ trên mặt chiếc tráp bằng hòm đạn.
Lão Đất thoắt biến mất rồi lại về nhà với cây roi cầm ngang trên tay, mặt mũi hầm hầm đầy giận dữ, cùng Định tợp mấy chén rượu nhấp với mực khô. Định cầm chén rượu ngồi nhìn ra một ngả vào chợ - vẫn là cái lối đi vào chợ ngày trước nhưng nhà cửa, sân vườn hai bên đều đã hoang tàn. Định đoán mấy chục năm qua ông chủ cắt thuốc bắc đã mất nhưng vẫn hỏi:
- Chú Lưu còn sống không anh?
- Chết từ bao giờ rồi ấy chứ còn hỏi.
Định vẫn cầm chén rượu, ngó qua ngó lại cố tìm một khoảng vàng óng ánh của mớ dây tơ hồng leo trùm lên một bờ cây chè tàu xén vuông góc thẳng tắp nhưng Định chỉ thấy trên lối đó những bức rào nứa đan mắt cáo đổ dúi dụi và phía sau là những nếp nhà ngói bị tốc mái.
- Này anh, Định lại hỏi, Tề... có còn ngoài chỗ đầu cầu không?
- Nó sợ gặp lại chú hay sao ấy, đã bán tháo mớ cá, về nhà rồi.
- Em xem cô ấy... hình như bây giờ vất vả?
- Lại còn vất vả? Khổ nhục như con chó, tính nết cũng khác đi. Thằng chồng nó đánh, mấy lần đã chạy đi trẫm mình.
- Nhà ở đâu?
- Bên kia sông. Nhưng con gái nó đang bán sách ngoài lều ngay trước mặt nhà mình đây này.
Lão Đất lại đưa mắt nhìn ra cái vùng đất bãi chiến trường trước nhà lão mới lác đã thêm vài hàng xén, vài hàng cá, một tay có vẻ dân "cà lơ" và một lão thợ rèn vừa đến đặt lò bệ bên cạnh lão thầy bói.
Một cái chợ chết đi sáu bảy năm đang sống lại.
Lão Đất được uỷ thác trọng trách làm công việc này, vì biết chỉ có bàn tay lão mới làm nổi. Vì sáu bảy năm trước, cùng với ngọn roi bằng đuôi cá đuối ấy lão đã giải toả được chợ, khi thằng địch leo thang từ trong Cầu Bùng ra.
Xem trong ý tứ, cả hai lần, giải toả chợ hay nhóm lại chợ, lão Đất đều làm tận tuỵ và đầy hứng thú. Cũng như suốt đời lão đã làm tộc trưởng chi họ một cách tận tuỵ và đầy hứng thú.
 Định hiểu kỹ ông anh họ của mình lắm. Đấy là cái máu mê của bất kỳ một anh nông dân nào. Thích nhoi lên làm người cầm đầu, thích uy quyền.
Lão Đất vội vã cắp cây roi vào nách, bảo Định:
- Hay là chú đi với tui.
- Đi đâu?
- Đi đâu thì đi.
Theo lão đến trước cổng đền, Định lại đưa mắt nhìn ra khúc sông thiêng, nhìn ngọn roi bằng đuôi cá đuối lởm chởm gai lăm lăm trong tay người anh,
- Anh lại ra chỗ hàng cá?
- Đáng lẽ tui đã tập trung xong mấy phiên trước rồi mới phải. Chú có biết ngày giải tán chợ, tui làm mau hơn bây giờ không?
- Vì sao?
- Tại vì có bom thằng Mỹ nó thúc vào mông cho. Cái quân hàng cá làng mình chỉ ưa nặng.
Nói rồi lão Đất đi vượt lên. Định đứng lại trước cổng đền nhìn theo, thấy lão leo lên cái mố cầu đứng nói mấy câu rồi hầm hầm chạy vào giữa đám nón đang nhấp nhô. Như thế là, lão đã quyết định thay đổi đường lối hoà bình bằng thái độ bạo lực. Lão không đánh vào không khí mà giang tay quát thực lực vào người ta, tay đánh chân đá tung những mẹt cá.
Hai ba mụ đàn bà nhe răng ra, lao vào lão. Còn lại bao nhiêu sợ hết vía, ai cũng nghĩ phải làm sao giữ được cá, liền ôm lấy những thúng, những mẹt cá chạy rần rật, cả đám đàn bà kẻ buôn người bán xô nhau chạy một mạch vào trong chợ.
Lão Đất áo quần tơi tả, đứng cười ngất. Thừa thắng lão vác thanh roi đi giải toả những cái chợ lẻ khác. Cánh hàng quà, hàng hương, đám người bán hoa giả, hoa thật cũng chỉ sợ hỏng mất hàng, mới nghe sự kiện xảy ra ở chợ cá đã ngoan ngoãn gồng gánh vào chợ.
Thật đơn giản, lại mau lẹ.
*
Quãng quá trưa, khi định được lão Đất giắt đi dụi mả bố mẹ mình trở về thì cả khu chợ đã đông nghịt. Nhất là không khí của nó đã ra dáng một phiên chợ Tết.
Trên mảnh đất bom đạn và chiến tranh đã nhào nặn đến biến dạng, Định có dịp thấy tất cả những gì quen thuộc với Định từ nhỏ, chính Định cũng đã quen đi, thì nó vẫn còn đó. Định thích thú ngắm nghía những con lợn đất sơn đỏ, những chiếc kèn cũng bằng đất vắt hình con gà trống, những nhánh hoa thờ với những bông hoa bằng giấy kim tuyến lỗ chỗ vết kim châm.
 Chen lấn giữa đám con nít bâu quanh một chiếc bàn, Định đứng xem một anh chàng đội mũ phớt tàng, mặt rỗ hoa đang vắt con giống. Từ một hàng những những vắt bột nếp nhuộm màu ngũ sắc với một chiếc que tre, mười ngón tay cứ thoăn thoắt trong nháy mắt đã làm sống lại những Phàn Lê Hoa, những Quan Công, v.v..
Bánh mướt, bánh xèo... Định la cà suốt một dãy bán miếng chín quen thuộc với Định từ bé. Định đi dưới giao thông hào, leo lên bờ hố bom. Các dãy hàng cá, hàng gạo, hàng vôi, hàng nồi đất..., lão Đất chỉ có việc dùng roi xô người ta vào, ấy thế mà đến lạ, thật không thể nào hiểu nổi, ai ngồi đâu lại ngồi đấy, tự sắp xếp như sáu, bảy năm về trước, y như tự nó cuộc sống đã có một thứ ký ức đầy chuẩn xác.
 Định buồn rầu nhận thấy chính vì thế, mặc dầu mặt đất bị xáo trộn nhưng cuộc sống con người lại ngưng đọng, như một sự lặp lại.
Một cái gì bao quanh Định, một không khí luôn luôn bao bọc Định, đấy là sự quen thuộc, một nếp sống quen thuộc đã có từ lâu đời, và chả có gì bị phá vỡ đang phô diễn trong phiên chợ Tết ban đầu khiến Định say mê và rưng rưng cảm động, song sau đó hình như chính nó lại làm Định đến phải phát mệt, và sợ - Định tưởng mình cùng với cả một đám đông đang sôi sục đến chóng mặt trong một cái guồng quay đầy luẩn quẩn.
Lão Đất mặt mũi rạng rỡ, miệng phả ra hơi rượu, hét vang cả chợ trong khi khệnh khạng đi lại phía Định: "Đó chú coi, tui không ra roi thì làm sao có chợ? " (Định nghĩ thầm, buồn rầu: Mà lão nói đúng thật!).
Lão véo má chị bán trầu, cầm một lá, chạy sang anh hàng vôi quẹt một tý, lại sang bà hàng cau, vốc một nhúm. Lão nhai bỏm bẻm. Rồi dạo qua trước mặt mấy o hàng xén, lão trút hết nắm cau khô cầm trong tay cho họ, nhặt một vuông khăn mặt bông vắt lên vai.
Đầy vẻ phong tình, lão í ới hát:
"Nhớ ai lệ chảy bùi ngùi
"Khăn lau chẳng sạch, áo chùi chẳng khô.
Rồi lại còn phong tình hơn nhiều nữa, lại lại hát:
"Đêm nằm vuốt bụng thở dài.
"Bụng ơi bụng hỡi vì ai bụng tròn.
Đấy là mẹo cao của lão. Mấy o hàng xén chưa chồng đỏ mặt lên giật nẩy người xua lão ùi ùi như đuổi tà. Cầm chiếc khăn mặt bông vắt sang vai bên kia, lão bước đến trước mặt lão thầy bói.
- Ông người đâu? Lão Đất hỏi.
- Tui người trên Nhân Sơn xuống.
- Cái gì đây? - Lão Đất lôi chiếc khăn mặt bông trên vai xuống.
- Không thấy. Tôi đui.
- Nghe tiếng, ông có biết tui là ai không?
- Tiếng thì không nhưng nghe giọng thì biết.
- Vậy là ai?
- Ông chủ tịch xã.
- Tui còn to gấp mấy chủ tịch xã.
- Bẩm thưa, chắc ông là chủ tịch huyện? Lão thầy bói sợ hết vía.
- Tôi còn to gấp mấy ông chủ tịch huyện ông biết không? Vậy thì ông nghe tui nói nhé. Nghề ông là nghề mê tín dị đoan. Chính phủ cấm. Ông hiểu không?
- Thưa ông chủ tịch huyện...
- Lại tự do... cái gì chứ gì? Phải rồi, gọi là tự do tín ngưỡng. Chữ với nghĩa đếch gì mà như hóc xương cá... Tui là chủ tịch huyện mà ông còn định dạy chính sách cho tui hử? Chỉ nôm na thế này, tui là quản chợ. Có thêm ông thì chợ Tết mới ra chợ Tết. Mà vui. Ngày thường cũng vậy. Tui không cấm. Chính phủ cấm nhưng tui đây không cấm. Tui chỉ bắt ông tuân theo hai việc. Việc thứ nhứt là đóng thuế lều, lại thuế chợ. Việc thứ hai là ông phải đoán quẻ cho ai nấy đều vui vẻ cả. Con cái người ta ở ngoài chỗ hòn đạn mũi tên không ai chết. Thuyền bị giông bão ở ngoài biển không đắm. Nhà tui ở kia kìa. Tui ngồi trong nhà mà nghe mấy mụ đàn bà khóc bù lu bù loa lên giữa chợ là không được.
Định đứng dựa cây cột lều chờ nghe lao Đất ban bố chính sách chợ đối với lão thầy bói xong mới dám đến gần, nắm lấy cánh tay lão lôi đi.
Vốn là đám mấy anh em Định ở ngoài Hà Nội đều là cán bộ nhà nước cũng tự coi mình như cánh làm nên trong họ, mà họ hàng ở nhà cũng trọng vọng, lấy đấy làm điều tự hào.
 Bức thư của lão Đất gửi ra, ông anh đầu của Định đọc kỹ lắm. Ông anh đầu của Định là một nhà khoa học trong quân đội, đã đi ra nước ngoài nhiều, khi về hưu đóng đến cấp đại tá.
 Ý kiến của cái ông trưởng ở ngoài ấy là kỳ này mấy anh em sẽ cúng vào nhà thờ họ một chiếc trống.
 "Chú Định ạ, lần này về, chú hãy cố mua một chiếc trống, mà phải là một cái trống cái".
 “Cồng kềnh. Hay là em mua một chiếc trống bé ở đây mang về?"
 "Chú thiển nghĩ lắm. Mà chỉ lười!".
Ngồi với ông anh một lúc, Định mới kịp nghĩ ra và cười ầm lên. Một nhà khoa học mà rồi cuối cùng vẫn là một anh nông dân, vẫn mang đầy đầu óc một anh nông dân, mà cao thâm lắm, cái trống cái do mấy anh em Định cúng vào nhà thờ họ đánh lên trong ngày Tết nghe oai linh biết bao, mấy anh em Định không có mặt mà cũng như có mặt.
Lão Đất và Định đứng dưới mái lều nghe tiếng trống các loại đánh cứ rộn lên ở đâu đó ngoài khu chợ. Nghe tiếng trống, bao giờ lão Đất cũng thấy trong người không yên một chút nào, dường như mỗi đường gân, mạch máu, thớ thịt của lão cứ rung lên, vừa cuồn cuộn trỗi dậy đầy hứng khởi lại vừa bủn rủn, hai chân lão vừa muốn chạy phóng lên phía trước lại vừa muốn chạy giật lùi về sau.
Có lẽ từ đời tổ tiên đã để lại trong đáy lòng của lão cùng với tiếng trống là giặc dã, là giặc lụt, là sự hiện về của ông bà, thần linh.
Lão Đất không dám ra doi với đám bán trống, kiềng mặt chúng, lẽ vì thế. Sáng nay sau khi đã dẹp xong hết các nhóm chợ, lão có đến nhắc nhở. Đến bây giờ duy nhất chỉ đám hàng trống là vẫn đang còn nhởn nhơ ở ngoài, trên mấy miếng ruộng dùng làm giường mạ sau lưng đền.
Đặt chân đến đây thái độ lão Đất hoà nhã hẳn.
 Cầm dùi đánh thùng thùng vào mặt lại gõ cách cách vào tang, thử mãi, lão quyết định mua một chiếc trống cái không lớn nhưng mặt căng, gỗ tang không hứa hẹn bị mọt.
- Ông mua cho trường học hay cho việc họ? Kẻ bán trống, một anh dân mạn xã trong quấn khăn đầu rìu hỏi lão, chẳng biết hỏi thật hay bỡn.
- Tôi là lão Đất, quản chợ. Tôi mua cho việc họ.
- Nhốt chúng tôi vào trong chợ thì chỉ điếc tai thiên hạ. Ông cho đám chiêng trống chúng tôi ở ngoài này là phải. Vậy mà mấy mụ hàng cá đến là hay đơm đặt. Họ vu cho ông đánh họ phải không? Láo ! Láo!
- Giá bao nhiêu cái trống?
Gã hàng trống quấn khăn đầu rìu rõ ràng là muốn chọc tức lão Đất chơi, trả thù cho cánh hàng cá. Hắn gọi một cái giá mà lão Đất biễt là gọi xỏ.
 Lão Đất cũng không nói gì, thậm chí lại còn chào rồi mới đi.
 Lão tức như bị bò đá nhưng lòng trân trọng đối với tiếng trống linh thiêng vẫn khiến lão ngậm miệng. "Anh em chú đã có lòng với họ thì trao tiền cho tui, lão nói bằng giọng buồn bã, ra giêng cha con tui vào trong Cầu Bùng mua khiêng ra".
Định an ủi lão nhưng trong lòng rất lấy làm phục gã bán trống.
Đi sau lưng người anh họ trở về trong chợ, đi qua một cái bờ rào nứa đan mắt cáo của nhà ai. Định lại nhớ khu vườn xưa với những rặng cây chè tàu, nhìn người đàn bà nào trong chợ với yếm, váy tơi tả, xơ xác. Định cũng sực nhớ đến Tề cùng những ngưòi làng vất vả vì miếng ăn, chưa trẻ đã già.
Định giật mình nhận thấy một điều hiển nhiên là giá anh em Định vẫn cứ quẩn quanh ở làng thì cũng như họ, cũng hoà nhập vào cái guồng quay số phận ấy. Định, các ông anh Định lại gióng y hệt như người anh họ, như lão Đất.
*
Lúc bấy giờ, trong một ngôi lều, cô gái coi sạp hàng sách quốc doanh đang đổ ngả nửa người xuống giữa mớ tranh tết, hàm răng trắng nõn nhe ra cười, mải nhìn ra một cái hố bom ngay trước mặt lều, ở đấy cả góc chợ đang nháo loạn lên. Có một con lợn giống bị sổng rọ, người ta đã lùa được chú lợn xuống đáy hố bom nhưng không sao bắt được. Cô gái mải xem trò vui, đến lúc quay nhìn sang bên cạnh mới thấy một ông khách đã có tuổi đứng đó không biết từ bao giờ, đang nhìn mình. Cô ta vội đứng thẳng dậy.
- Tranh tết năm nay in đẹp lắm, bác ạ. Bác mua đi. Hay là bác mua đôi câu đối.
Định cầm lên một bức cá gáy vượt Vũ Môn, ngó qua.
- Cháu tên là gì?
- Thưa bác, cháu tên là Kim.
- Cháu là con thứ mấy của mẹ Tề?
Cô gái tròn mắt:
- Cháu là thứ tư. Bác biết.. mẹ cháu?
- Bác là Định, ở ngoài Hà Nội về. Bác cháu mình có họ với nhau đấy.
- Chắc là họ bên ngoại, bên mẹ cháu. Bác cũng tế tổ ở nhà thờ bác Đất?
- Phải. Mẹ cháu có khoẻ không?
- Mẹ cháu khoẻ lắm. Mời bác sang nhà cháu chơi.
- Cảm ơn cháu. Cháu được học đến lớp mấy.
- Cháu học được ít lắm. Nói giấu gì bác, nhà cháu vất vả lắm.
- Bố cháu làm nghề gì?
- Bố cháu thì cháu... chẳng biết nói ra sao. Mai, mồng một, mời bác sang chơi. Nhà cháu ở bên kia đò.
Định mua một đôi câu đối. Định cuộn lại cầm trên tay, lại mua một ít quà bánh ngoài chợ.
Chiếc đò chợ lui tới giữa hai bên bờ bằng một khúc dây chão to như con trăn, lúc nào cũng sũng ướt, đầu bên này buộc vào một chiếc cọc sắt chôn chân bên ụ pháo. Nhìn người đàn ông kéo đò, Định tưởng thấy thời gian ở đây hàng mấy chục năm qua như ngưng lại. Vẫn nguời kéo đò ấy, trạc ngoài năm mươi, tiếng nói chỏn lỏn, mắt lông quặm lúc nào cũng đỏ rựng, một vuông khăn đen của đàn bà chít ôm sát lông mày nom như hiệp sĩ Tàu. Ngày chưa cắp sách đi học, bám váy mẹ đi chợ Tết Định đã nhìn thấy ông ta như thế. Quái quỷ, chẳng lẽ người kéo đò không già, không chết?
Định hỏi thăm mấy người chung quanh, thì được biết người kéo đò cũ đã chết từ lâu, và đây là con người kéo đò ngày trước.
Ở bên kia đã là xã khác. Tề đi lấy chồng khác xã ở bên kia làm ăn còn khó khăn hơn bên này. Định leo lên ụ pháo đứng nhìn sang. Một dải chi chít những mái tranh nằm kề những nại muối vào mùa đông vắng tanh, và giát những trạt bãi đất phẳng lỳ mênh mông, không một bóng cây.
Định biết ở đấy vào vụ hè dưới trời nắng chang chang chỉ có giọt mồ hôi mặn của con người pha với giọt nước biển mặn để đúc nên hạt muối mặn.
 Định muốn sang nhà gặp Tề nhưng lại sợ Tề càng xấu hổ vì nhà cửa. Mấy lần ông kéo đò khoát tay giục nhưng Định vẫn đứng đó.
Chợt Định nhìn thấy một bóng thiếu nữ vừa chớm nhớn vận chiếc áo cánh trắng duyên dáng chạy vụt xuống bến đò như một làn ánh sáng, khiến Định lầm tưởng cô em họ ba mươi năm về trước. Kim, Kim, Kim, đời cháu mai ngày sẽ ra sao nếu gắn chặt với những làng xóm quê nhà yêu dấu?
- Kim!
- Bác, sao bác đứng đây? - vẻ vồn vã của Kim sao mà giống Tề ngày trước, đầy vẻ trẻ con - hay là bác cùng sang với cháu...
- Rồi bác sang - Định lưỡng lự một chút - hay là cháu về bảo với mẹ cháu là đến trưa mai, bác còn ở bên này.
Định trao vào tay Kim gói quà, lại cả đôi câu đối Tết. Định cũng đâm ra nhác đọc, mà câu đối Tết năm nào chả viết những câu như mọi năm trước?


11-87 

Chủ Nhật, 15 tháng 2, 2015

Một cách "hiểu ngầm" về tết và xuân chỉ riêng con người thời nay mới biết



Bài đã đưa trên FB của tôi 14-2-2015



Có lần tôi đã định soạn một cuốn TỪ ĐIỂN VĂN HÓA RỞM, nhưng rồi lại không đủ sức đi tiếp. Sau đây là mấy đoạn viết nháp có liên quan đến ngày Tết



TẾT

Những ngày vui đầu năm khiến nhiều người nghĩ tới vừa mừng vừa sợ. Một dịp để người ta tự cho phép có thể sống buông thả, do đó cũng là lý do để khôi phục nhiều hủ tục như chè chén lu bù, rượu chè cờ bạc dông dài. Ca dao cổ : Tháng giêng là tháng ăn chơi -- Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè ...

Một bằng chứng về tình trạng trung cổ của xã hội mà chưa biết bao giờ ta mới vượt qua được

(chữ trung cổ là do tôi mượn của Xuân Diệu.

Xin xem bài viết Đúc tết lại trên blog của tôi



CHÚC TẾT SẾP

Từ mới xuất hiện, thay cho từ cổ lễ tết quan trên hoặc lễ tết thương cấp. Thời điểm lý tưởng để bày tỏ sự biết ơn và đầu óc ăn chia sòng phẳng của một kẻ từng được che chở sau một năm làm ăn vất vả. Cũng là tình huống để kẻ đến biếu chứng tỏ sự hiểu biết sâu sắc đối với cái gu của cấp trên, phát hiện kịp thời những gì mà nhà sếp còn thiếu, hoặc đặc biệt ưa thích -- , và tài lùng sục những của được coi là lạ hiếm.



HÁI LỘC

Tục cổ đúng lúc giao thừa bẻ một nhành cây trong vườn mang vào nhà để mong gặp may mắn, nay đã biến tướng thành ham muốn lén bẻ đại cành lá ở những nơi công cộng, vừa là kiếm thêm ít lộc ngoài đường, vừa thoả mãn ý muốn làm bậy trong những lúc sống giữa đám đông. Nhiều người biết là một thói quan xấu song vẫn thích làm.



MỪNG TUỔI(lì xì)

Trong không khí vui vẻ, tặng cho trẻ ít đồng bạc để chứng tỏ quan hệ hữu hảo với cha mẹ chúng. Một dịp hối lộ có lý do chính đáng

Tại một số dịa phương một số gia đình, đã lan sang cả đối tượng người lớn và trở thành mối quan hệ có đi có lại, tôi mừng tuổi anh thì anh lại mừng tuổi tôi.



LỄ HỘI

Cuộc chạy đua giữa các làng xóm về tính chính danh. Làng nào cũng muốn nhận mình là trung tâm văn hoá của vùng, làng mình có những nét truyền thống độc đáo, để chèo kéo khách phương xa chuộng lạ.

Một hoạt động được các cấp chính quyền cực kỳ tán thành vì coi như một dịp trình diện trước toàn dân thiên hạ tư cách ông chủ của một vùng đất.

Cũng là một dịp để ngành thương nghiệp tống ra các thứ hàng, nhất là hàng hỏng hàng kém phẩm chất. Sự vụ lợi khiến ngành này ủng hộ lễ hội vô điều kiện.



DU XUÂN

Những ngày nghỉ ngoài quy định của nhà nước.Với một số cơ quan xí nghiệp ăn nên làm ra, là một dịp để hợp pháp hoá các khoản chia chác nội bộ.



BÁO TẾT

Một dịp để các ban biên tập bộc lộ khả năng làm dáng cho tờ báo của mình: nó có thể hào nhoáng đến đâu, mỹ miều đến đâu.

Báo thường đẹp theo nghĩa để bày hơn để đọc.

Cũng là một dịp để ban biên tập trình ra đội ngũ cộng tác viên loại xịn và chiêu đãi họ sau một năm làm ăn khó nhọc bằng những khoản nhuận bút hậu hĩnh hơn so với ngày thường.

Tài làm báo tết còn bộc lộ rõ ở tài chạy quảng cáo, và đó là lý do chính khiến người ta vẫn phải lo báo tết bằng được, mặc dù số lượng in của nhiều báo ngày tết thường sút giảm.

Cầm một vài tờ báo tết chạy theo quảng cáo quá mức đến mức lố bịch, tôi nghĩ đây không còn là báo kèm quảng cáo mà là quảng cáo độn thêm báo. Vai trò chính phụ đã bị đảo ngược.
















Tiếng kêu thảng thốt cuối cùng của Nguyễn Minh Châu

Không có mặt trong cả Bến quê lẫn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, truyện ngắn Chợ tết lẻ loi đi giữa một số báo đến mức nhiều người không biết có nó.

Ai ngờ thiên truyện ngắn ngủi lại chứa đựng nỗi niềm tâm sự sâu sắc nhất Nguyễn Minh Châu muốn gửi tới bạn đọc.

Qua một phiên chợ Tết vùng quê xứ Nghệ, nhà văn đã phác họa ra cả tình trạng của xã hội Việt Nam sau chiến tranh: ngưng đọng và luẩn quẩn, cổ lỗ và bất lực, chán chường ngán ngẩm khi nghĩ về quá khứ song lại mơ hồ không biết rồi tương lai mình sẽ đi tới đâu.

Ấn tượng cuối cùng để lại trong đầu óc người đọc chính là câu hỏi thảng thốt khi ông hướng về lớp trẻ:

--“Kim, Kim, Kim, đời cháu mai ngày sẽ ra sao, nếu gắn chặt với những làng xóm quê nhà yêu dấu?”.

Tác phẩm in ra từ đầu xuân 1988.

Từ đó tới nay, tưởng là có nhiều thay đổi song xã hội Việt nam thật ra vẫn chưa tìm ra lối thoát.

 Tôi nghĩ rằng nhiều người đọc cũng như tôi sau khi đọc lại thiên truyện sẽ thấy mình có chung số phận với cô gái tên Kim ấy.

 Nghĩa là hôm nay đây câu hỏi nêu ra cho Kim cũng vẫn là  đang đặt ra với chính chúng ta.








Có một năm, khoảng đầu 1973-1974 gì đấy, đang giữa tháng chạp âm lịch, Nguyễn Minh Châu bị bệnh, phải đi viện và khi ông ra viện, thì đã xong tết. Mọi người ai cũng tỏ vẻ tiếc cho ông là mất một dịp vui, nhưng tôi nhớ là khi nghe vậy, Nguyễn Minh Châu chỉ cười, cái cười hiền lành tự tin vốn có. Rồi ông bảo:


- Thôi cũng tránh được ít ngày phải sống giữa một cơn điên!


Thoạt nghe câu nói có vẻ khinh bạc, nhưng những ai có biết Nguyễn Minh Châu hẳn còn nhớ thường ông sống hơi khó khăn trước những đám đông, cái việc ông ngại tết là có thật, và mỗi lần tết đến thường ông cứ vừa hoan hỉ vừa lúng túng thế nào đó, khiến mọi người có lúc buồn cười song lại nhiều phen thương cảm.


Lại đã có những lần, đúng vào dịp gần tết, Nguyễn Minh Châu về quê. Cái làng chài nơi ông đã lớn lên là thuộc huyện Quỳnh Lưu, cách Hà Nội hơn hai trăm cây số.


 Hồi ấy, bà cụ sinh ra ông còn sống và càng thương mẹ, ông lại càng thương quê, thương cái làng mà có lần ông nói với tôi một cách khái quát rằng, nó còn “thiên nhiên thiên bẩm”, nghĩa là còn hoang dã lắm.


Từ quê trở ra, hầu như bao giờ Nguyễn Minh Châu cũng buồn. Những ngày thường cái buồn đã nặng trĩu tâm hồn ông, huống chi những ngày giáp tết.


 Biết ông vừa đi xa về, nhưng bọn tôi cũng chỉ nói quấy quá ít chuyện vui vẻ mà không dám hỏi sâu thêm.


 Song, càng thấy Nguyễn Minh Châu xúc động, người ta càng tin món nợ viết về làng quê vẫn nung nấu trong ông và chờ ngày có dịp chứng kiến ông viết trực tiếp về quê hương.


Chợ tết là một dịp để Nguyễn Minh Châu trả món nợ đó. Thiên truyện in ra lần đầu trên tạp chí Văn nghệ quân đội số 2-1988.


Gần một năm sau, Nguyễn Minh Châu qua đời, ngày 27-1-1989.


Một cách ngẫu nhiên, Chợ tết có cái may mắn nằm trong số báo xuân cuối cùng mà Nguyễn Minh Châu tỉnh táo còn được nhìn thấy. Và sự trùng hợp đó càng cho phép tôi tin rằng đây là một thiên truyện được Nguyễn Minh Châu để tâm săn sóc kỹ lưỡng, nó giống như bản di chúc Nguyễn Minh Châu rút ra từ đời văn và đời làm người của mình.


***


Một trong những sáng tác nổi tiếng nhất của Nguyễn Minh Châu trong những năm cuối đời là Khách ở quê ra.


Để tránh những sự công kích vô lối, có lần nhà văn hay lo xa đã phải tìm cách mang lại cho tác phẩm một nội dung thời sự bằng cách chua thêm vào bên cạnh đầu đề dòng chữ “Vài nét cốt cách của một người sản xuất nhỏ cổ sơ còn lại ở nông thôn phản ứng trước tập quán công nghiệp và đô thị”.


Tuy nhiên, ai cũng biết cảm hứng chi phối Khách ở quê ra  là cái phần bóng tối còn nặng nề, cái phần lạc hậu một thời gian dài còn bao trùm lên con người và cuộc sống nông thôn. Lớn lên trên  mảnh đất đã quá cằn cỗi, con người ta phải như cây rau dền gai thô tháp, chen cạnh, bám chặt vào cuộc sống thì mới sống nổi.


Một ấn tượng tương tự về nông thôn cũng có thể tìm thấy trong Chợ tết.


Nhếch nhác, bẩn thỉu, cái làng biển được nói tới ở đây lúc nào cũng tanh mùi cá, và con người thì quẩn quanh tù túng, lúc nào cũng bận bịu với cuộc mưu sinh, không sao ngẩng mặt lên được.


Đến một chiếc cầu qua chiếc lạch hẹp, “khéo lắm chỉ dài gấp đôi thân con bò” (lời Nguyễn Minh Châu trong nguyên văn) người ta cũng không bắc nổi, và muốn lên chợ, người ở xã bên cạnh chỉ có cách chen chúc trên một chiếc đò cũ nát, cọc cạch, để sang xã bên này.


Lạ một cái là chỗ nào cũng đầy người, mảnh đất lầy lội vào những ngày phiên chợ càng chạt những người là  người, đám đông vữa ra như một con sứa bầy nhầy nhũn nhẽo khiến cho lão Đất (một thứ cai chợ) muốn lập lại trật tự chỉ có cách dùng đến roi vọt. Chính ở điểm này, chúng ta thấy sự hợp thời của lão Đất cũng như trong Khách ở quê ra, đã thấy sự hợp thời của lão Khúng: nghĩa là càng cổ lỗ, đơn giản, dung tục, thì  càng được việc. Ở đây không có chỗ cho sự tinh tế.





***


Như Nguyễn Minh Châu có lần đã kể, sau khi viết Khách ở quê ra, ông còn chí thú định viết một truyện nữa, có thể tạm gọi là Khách ở tỉnh về.


Khi những mảnh sống tương phản được đặt cạnh nhau – Nguyễn Minh Châu giải thích – chúng làm tôn nhau lên và cho ta thấy rõ điều hàng ngày ta còn chưa thấy.


Tuy không được dày dặn như Khách ở quê ra, song Chợ tết chính là một thứ Khách ở tỉnh về mà Nguyễn Minh Châu đã dự định.


Cái làng biển được tả ở đây, là dưới con mắt Định, một người đang sống ở Hà Nội và có bà con họ hàng với lão Đất nói ở trên.


Mang cốt cách một viên chức, một “cán bộ thoát ly”, đời sống tinh thần của Định khá phong phú. Và cái chính là Định đã biết nhìn làng quê của mình bằng tầm mắt của người đi xa, biết rộng.


Bởi vậy, nét nổi bật của cái làng chài được miêu tả trong Chợ tết lại là vẻ trì trệ cũ kỹ của nó.


Phong cảnh hiện ra như từ muôn đời vẫn vậy, khiến Định luôn luôn ngạc nhiên: “mặc dù mặt đất bị xáo trộn , nhưng cuộc sống con người lại ngưng đọng, như một sự lặp lại”.


Thế còn con người trong làng? Một thiếu nữ mới nhớn, giống y như mẹ cô ta, ba mươi năm về trước. Một người kéo đò hơn năm mươi tuổi, cũng giống y như người kéo đò năm xưa, khiến Định ngạc nhiên, tưởng như ông ta không già không chết, sau hỏi ra mới biết đấy là con nối nghiệp bố.


Cho đến cả câu đối tết nữa, Định cũng chả buồn đọc, bởi tin chắc “câu đối tết năm nào chẳng viết những câu như mọi năm trước”.


Có thể là trong những ngày thường sự tù túng tẻ nhạt đã ngự trị, song đến những ngày tết, sự ngưng trệ này mới hiện lên như một ám ảnh.  Tâm trạng Định được phác hoạ như một trạng thái nước đôi, liên tục biến chuyển:


 “Một cái gì bao quanh Định, một không khí luôn luôn bao bọc Định, đấy là sự quen thuộc, một nếp sống quen thuộc đã có từ lâu đời và chả có gì bị phá vỡ đang phô diễn trong phiên chợ tết, ban đầu khiến Định say mê và rưng rưng cảm động, song sau đó, hình như chính nó lại làm Định đến phải phát mệt và sợ. Định tưởng mình cùng với cả một đám đông đang sôi sục đến chóng mặt trong một cái guồng quay đầy luẩn quẩn”.





***


Nhà văn hiện đại nổi tiếng Lỗ Tấn là một tài năng kiệt xuất với cái kích thước rộng lớn mà nước Trung Hoa hiện đại mang lại cho ông.


Tôi không có ý muốn đặt tài năng Nguyễn Minh Châu bên cạnh Lỗ Tấn, để làm một cuộc so sánh.


Tuy nhiên, đọc Chợ tết tôi cứ thầm nhớ lại Cố hương của nhà văn Trung Hoa mà sinh thời Nguyễn Minh Châu trong những câu chuyện với chúng tôi, thường tỏ ý khâm phục.


Cũng như trong Cố hương, đọc Chợ tết, ta có dịp sống lại những ý nghĩ của người con đi xa, về thăm quê cũ. Cũng vui buồn lẫn lộn xen lẫn bên nhau, và niềm vui gặp lại dù rộn ràng bao nhiêu cũng không đủ xoá hết ấn tượng về sự nghèo nàn tù túng đang vây bủa quê hương.


Sau hết, sự gần gũi giữa Chợ tết Cố hương là ở cái chất trữ tình như một làn sương mỏng thấp thoáng ẩn hiện sau những dòng chữ.


Nhân vật Nhuận Thổ trong Cố hương sau mấy chục năm gặp lại, cũng già đi, xấu xí tầm thường đi, như người đàn bà tên là Tề, mà Định gặp trong phiên chợ tết. Nhưng người con của Nhuận Thổ là Thuỷ Sinh cũng tươi tắn sinh động, như cô gái tên Kim, con gái mẹ Tề, coi sạp hàng sách quốc doanh hôm nay.


Kết truyện, trong khi Lỗ Tấn thiết tha tự nhủ “Chúng nó cần phải sống một cuộc đời mới, một cuộc đời mà chúng tôi chưa từng được sống”, thì Nguyễn Minh Châu, qua nhân vật Định, sau một hồi thảng thốt trước một thực tế luẩn quẩn, cũng gần như kêu lên: “Kim, Kim, Kim, đời cháu mai ngày sẽ ra sao, nếu gắn chặt với những làng xóm quê nhà yêu dấu?”.




Người ta thường nói nhà văn nên kín đáo giấu mình sau tác phẩm. Nhưng trong thực tế sáng tác, trước những khung cảnh xúc động, các nhà văn thường không ngại “xé rào” bước ra trò chuyện trực tiếp với người đọc. Lỗ Tấn đã làm như thế, rồi đến lượt Nguyễn Minh Châu, không hẹn mà nên, cũng làm như thế. Và điều nhân vật Định tự nhủ trong đầu cũng là điều chính nhà văn muốn nhắn nhủ với chúng ta qua Chợ tết. Nó là tiếng kêu thảng thốt cuối cùng của Nguyễn Minh Châu.










Bài in lần đầu trong Cánh bướm và đóa hướng dương 1999






Biết rằng bạn đọc không dễ tìm lại


thiên truyện này của Nguyễn Minh Châu,


chúng tôi đang nhờ đánh máy




và sẽ giới thiệu lại trên blog vào những ngày tới.