Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

Cuộc khủng hoảng của nhà Trần sau khi đánh thắng quân Nguyên


Tiếp tục câu chuyện về Trần Khánh Dư: Vừa
là  người anh hùng có công vừa là viên
quan cai trị có tội
 đưa trên blog này ngày 1-10-2013 


http://vuongtrinhan.blogspot.com/2013/10/vua-la-nguoi-anh-hung-co-cong-vua-la.html





Trên con đường lấy lịch sử để giải
thích hiện tại, có một việc tôi đang muốn dành thời gian để 
làm là đọc lại sử nước mình những năm sau chiến
tranh – ta hay gọi là hậu chiến.



 Câu hỏi đặt ra hôm nay: đánh xong quân Nguyên,
xã hội VN thời nhà Trần ra sao? Và tôi tìm thấy một số tư liệu như sau.







Dưới con mắt Đào Duy Anh 


 
   Trong cuốn Lịch
sử VN- từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX

Đào Duy Anh dành hẳn một chương, chương XXV, nói về Bước suy đốn của nhà Trần, trong đó nói rõ việc đầu tiên Trần Nhân
Tông cho làm sau khi quân Nguyên rút lui năm 1285 là duyệt lại hộ khẩu trong
nước.


     
Để làm gì? Theo Đào Duy Anh, để
tìm cách “lấy tiền của mà tu bổ những tổn hại do chiến tranh gây nên.”


   
Tiếp đó, Đào Duy Anh kể ra nhiều
việc nhà Trần đã làm sau 1288, nhằm “ra tay bóc lột nhân dân thêm nữa”.


    
“Ngay năm 1290, sử đã chép có nạn đói lớn [....] Sau khi
đã ra sức tham gia kháng chiến trong quân đội hay trong dân quân, người nông
dân thấy đời họ không được cải thiện mà lại còn bị bóc lột hơn xưa, họ rất lấy
làm bất bình mà đã rục rịch phản đối. Không thể dùng ngay thủ đoạn khủng
bố, Trần Khâm ( tức Nhân Tông—VTN ) lại
nghĩ ngay đến việc dụng binh đối với các nước nhỏ láng giềng  để đánh lạc hướng bất bình của nhân dân” (Sđd,
bản của Nxb Văn hóa Thông tin, 2002,
tr. 258-259) 





Theo cách miêu tả của Trương Hữu Quýnh và
Nguyễn Đức Nghinh


 Trên đây tôi đã bắt đầu từ cuốn  sử của Đào Duy Anh.


 Khốn thay là từ 1958 tới
1980, Đào Duy Anh bị vướng vào vụ Nhân văn 
nên các tác phẩm của ông, kể cả cuốn trên, không được in lại. Tuy một số
phương diện tư tưởng của ông có được các học trò xuất sắc ở thế hệ sau ... tiếp
tục, nhưng thực tế là người ta càng ngày càng xa rời cái chiều hướng mà Đào Duy
Anh theo đuổi để đi vào một thứ sử học đơn giản và vụ lợi, cốt phục vụ các mục
đích chính trị trước mắt.


Cũng may mà những năm trước 1975,
tình hình cũng chưa đến nỗi hoàn toàn bi đát.


Theo dư luận chung, một trong những cuốn
xuất sắc nhất thời ấy là 
 Lịch sử
chế độ phong kiến VN
của khoa Sử đại học tổng hợp viết trước 1975, cuốn I
sách này dành để viết về VN trước thế kỷ XV.
































 Nhưng tôi hiện không có cuốn đó trong tay, chỉ
đành dựa vào bộ Lịch sử Việt Nam quyển
I, tập II, bao quát giai đoạn từ thế kỷ VII tới 1427 của Khoa Sử Đại học sư
phạm, nxb Giáo dục Hà Nội, 1970. 









 







  
cuốn sách này, tôi tìm được những trang sử mà mình muốn biết và muốn mọi
người cùng biết.



Sau chương V nói về cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông
, chương VII cuốn sử do Trương
Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh biên soạn mang tên Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIV.


Ngay phần mở đầu chương, cùng với việc nêu rõ tầm cỡ chiến thắng, các tác
giả viết:


 “…ba năm chiến tranh ác liệt chống chọi với kẻ
địch nổi tiếng về tính chất cướp bóc và phá hoại đã để lại những hậu quả quan
trọng cho sản xuất và đời sống nông dân. Liền sau đó hai năm 1290, 1291 là
những năm đói lớn, một thăng gạo trị giá một quan tiền, nhiều người dân phải
bán ruộng đất và con trai con gái để lấy lương ăn.”(tr 258)


Hoàn cảnh hậu chiến khó khăn, hẳn
không ai lạ gì. Các nhà sử học tôi muốn giới thiệu trong bài này chỉ hơn hẳn
các nhà sử khác là không lảng tránh mà coi đó là một đối tượng cần phải miêu tả.


 Trong sự hạn chế của một nền sử học viết trong
hoàn cảnh 30 năm chiến tranh, họ dường như muốn cảnh báo trước về những khó
khăn mà con người hậu chiến hiện đại sẽ phải chịu đựng.





Theo sự chỉ dẫn của các tác giả, người
ta được biết những năm đó, nguy cơ của một cuộc xâm lược lần thứ IV của quân
Nguyên vẫn chưa hết.


 Nhưng có cái lạ mà khi đọc lại chúng tôi hết
sức ngỡ ngàng, đó là chỉ hai năm sau, lập tức vua và quí tộc nhà Trần đã phát
động cuộc chiến tranh xâm lược các nước láng giềng ở phía Tây và phía Nam, tức Ai Lao và Chiêm Thành.


Và có ít đâu, cuộc chiến Việt Nam Ai
Lao thời ấy kéo dài hàng nửa thế kỷ ( xem tr. 260), mà cuộc chiến với Chiêm
Thành lại còn dây dưa lâu hơn – trận chiến cuối cùng mà quân nhà Trần tiến hành
ở Chiêm Thành là vào 1396 (tr.263).


 Các bộ lịch sử VN viết trong những năm chiến
tranh có thói quen ca tụng tất cả những cuộc chiến tranh mà ông cha ta đã tiến
hành trong quá khứ.


 
Nhưng ngay ở đoạn viết về cuộc
chiến tranh sang đánh Ai Lao của Trần Nhân Tôn 
năm 1290 và 1294, các tác giả của Khoa Sử trường Đại học Sư phạm đã vượt
ra ngoài thói quen đó.


 Các ông nói rõ đây là những cuộc hành binh phi nghĩa.(
Tr 259)


Nhìn lại cả  một thế kỷ chiến tranh ở mặt trận Tây – Nam,
các tác giả bảo rằng nó đã huy động “những khả năng lớn lao của dân tộc” chỉ
“để thỏa mãn những tham vọng về đất đai uy thế và quyền lực” của vua chúa thời
ấy mà thôi( sđ d tr 263).





Để miêu tả đến cùng tâm lý bệnh hoạn
mà vua chúa thời ấy mắc phải,  các tác
giả  Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức
Nghinh lại còn ghi lại một cuộc bàn bạc trong triều đình nhằm tố cáo lý do giả tạo mà ông vua vừa chiến
thắng quân Nguyên nêu ra để buộc mọi người làm theo ý mình.


Ở tr 259, sách kể khi đánh Ai Lao, bầy
tôi có người can ngăn rằng giặc Nguyên vừa mới rút lui, vết thương chưa hàn gắn được, không nên gây việc binh đao, thì vua trả lời đại ý rằng “sau khi giặc
rút lui, các nước bên cạnh tất bảo là quân mã của ta mỏi mệt, có ý coi thường,
cho nên cần phải khởi đại binh để ra oai với nước khác”.


Tóm tắt tình hình chinh chiến với Chiêm
Thành,  các tác giả cho biết:


 “ từ 1361, quân nhà Trần lui dần vào thế phòng
ngự, chuyển cuộc  chiến tranh ở đất nước
người về đất nước mình, nhân dân lao động phải gánh chịu những thảm họa của
chiến tranh trực tiếp và ghê gớm hơn.”


 “…sức sản xuất bị đình trệ  và có lúc bị phá hoại nặng nề đưa đến nạn đói
lưu niên. Chỉ tính từ 1290 đến 1379 đã có 13 lần đói trầm trọng…(tr. 265)


 Xét chung tình hình quốc gia, xưa nay dân ta hay
nói sau khi chiến thắng quân Nguyên, đây là giai đoạn “ngàn năm thăng bình”.


        Thăng bình là từ cũ nay ít dùng.
Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Mộng Hùng ( S. 1975) lý giải là "lên cõi bình trị trên toàn đất nước", tiếp đó ghi
lại câu thơ Nguyễn Khuyến “ "Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo” làm dẫn chứng . 





Nhưng theo các tác giả cuốn sách đang
nói, tình trạng thăng bình -- và nghĩa giản dị hơn là một cuộc sống yên ổn -- không đến
với dân chúng.


Cuộc sống “an cư lạc nghiệp mà người dân Đại Việt muốn sau những năm
chống quân Nguyên căng thẳng, không thể tìm thấy được trong cả thời gian rất
dài gần hết thế kỷ XIV” ( sđ d tr. 264).


Tại sao vậy? Tạm nêu  lý do:


a/ Bao trùm trong những người quản lý
quốc gia là  tâm lý đắc thắng kiêu ngạo “ bụi Hồ
không dám động”.


b/ Khi đã mất hết cảm giác chính xác
về thời cuộc, tầng lớp quí tộc cầm quyền những năm sau chiến tranh tự cho phép
mình rơi vào ăn chơi sa đọa.


 Có thể hình dung sự ăn chơi của vua quan nhà
Trần thời hậu chiến  là vô cùng bỉ ổi,
bởi họ có lý có lẽ hẳn hoi. 


Nói theo chữ nghĩa thời nay, họ lao vào hưởng thụ một cách
có ý thức. 


Với tư cách là người chiến thắng họ cho mình cái quyền đó. “Cuộc
chơi năm nay lại hơn những cuộc chơi năm xưa
” – trong một bải thơ  vua Trần đã nói như vậy( sđd tr 263).





Ta hãy chú ý đến một khoảng cách là 40 năm hậu chiến. 

Đây là
thời Dụ Tông.


Tiếp theo AnhTông (1293-1314), Minh Tông(1314- 1329) Hiến Tông (1329—1340),
vị vua này trị vì từ 1341 – 1369.


 Lịch sử Việt Nam của Lê Thành Khôi viết ở bên Pháp từ
1950 và mới được dịch ở ta 2014, trong 
chưa đầy hai trang ngắn ngủi nói về sự suy tàn của nhà Trần ( tr
225-227), cũng phải đề cập tới Trần Dụ Tông.


 Ông vua này được miêu tả là người “chỉ
nghĩ đến rượu chè chơi bời và phung phí công quỹ vào việc xây cung điện.”





Trở lại với cuốn LSVN của khoa Sử
ĐHSP, thời kỳ Dụ Tông nhiều chùa tháp và cung điện được xây dựng. Vua sai đào
hồ lớn ở vừờn ngự,  chất đá thành núi, bốn mặt khai sông cho nước thông vào để làm
chỗ vui chơi. Sau đó còn đào một hồ nhỏ khác bắt dân Hải Đông chở nước mặn về
chứa vào hồ để nuôi hải sản (tr 263-264).


Thời kì Dụ Tông cũng là thời kì những
kẻ bất tài khéo nịnh được thăng quan tiến chức, viên chính chưởng phụng ngự Bùi
Khoang giả vờ uống hết 100 thưng rượu mà được thăng tước.( tr 264)





Từ những ghi chép và bình luận của Ngô Thì


Trên đây là mấy tài liệu lấy ra từ
các bộ sử đương đại. Dưới đây là các bằng chứng xa xưa hơn.


Khi nói về các bộ cổ sử, người ta
phải nói tới Đại Việt sử ký toàn thư
của Lê Văn Hưu và Việt sử thông giám
cương mục
của Quốc sử quán triều Nguyễn.


Nhưng thời gian gần đây, các nhà
nghiên cứu còn giới thiệu một vài bộ sử khác, bộ nào cũng có những khía cạnh
mới.





Một tác giả như Ngô Thì Sĩ (1726-1780) đã mang
lại cho cổ sử những ghi chép người khác hoặc bỏ qua, hoặc ghi không rõ, và nhất là những bình luận độc đáo, mang
dấu ấn một tư duy sử học gần với con người hiện đại.


 Chung quanh thế kỷ XIV mà chúng ta đang nói,
đọc vào cuốn của Ngô Thì Sĩ thấy nhiều ý tứ phê phán mạnh bạo hơn, nên trong
bài này tôi muốn cùng bạn đọc lần vào các trang 
sử của người thân sinh Ngô Thì Nhậm, với sự lưu ý trước rằng, nhiều chi tiết có thể đã thấy ở
cuốn Toàn thư, cũng như ở  Cương mục.





 Tài liệu tôi dùng lần này là bản Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, bản dịch của
Viện nghiên cứu Hán Nôm, in 1997.





Xin phép bắt đầu bằng cách  nói tạt ngang về một chuyện
có liên quan tới sự lạ lùng của ĐVSKTB.


Gần đây báo chí nói nhiều tới việc
Nhân Tông thượng hoàng (trị vì từ 1279 tới 1293) đi tu.


Một lần khoảng 2010, gặp nhau ở Sài Gòn,
anh Trần Đĩnh --  bằng sự lịch lãm của
một người đã qua sống qua ba chục năm chiến tranh và hết sức thông thạo mọi
đường ngang ngõ tắt của các trung tâm quyền lực – đã giải thích với tôi, chắc
là Nhân Tông thấy chiến tranh khủng khiếp quá, nên tìm cách tách mình ra khỏi
thời sự mà suy nghĩ đấy thôi.


 Cũng là một cách ghi nhận tâm lý hậu chiến!


 Thật thú vị khi đọc Ngô Thì Sĩ lại bắt gặp một
ý tưởng tương đồng. 


Tiếp theo đoạn ca ngợi Thượng hoàng Nhân Tông, tác giả
ĐVSKTB đứng trên lập trường nhà nho dấn thân, để chỉ ra trong hành động đi tu
này vài ý nghĩa tiêu cực.


 Ngô Thì Sĩ viết “Vua Nhân Tông tinh thông kinh điển, vốn có giác ngộ, trong
thiên hạ không vật gì đáng bận tâm. Nhưng đường đường là đấng thiên tử mà ẩn
náu nơi hang cùng ngõ hẻm, sớm hôm cùng một hai nhà sư trên núi không có hám của
cải,  sống trong cảnh thái bình cho đến
hết đời, công nhiên dùng Phật học mà dẫn dắt con cháu, đưa cả thiên hạ vào giáo
lý đạo Phật, lỗi ấy không gì lớn hơn. (Tr 394 sđd) 











 





 





Trở lại với cái mạch chung của thế kỷ
XIV. 


Trên nét lớn, sau khi đọc các nhà sử học đã dẫn ra ở trên, người ta chỉ
có thể đi đến kết luận rằng sau một thời đại anh hùng là một thời kỳ đen tối và
 thế kỷ XIV là một thời kì đau đớn trong
lịch sử nước ta.


Sau khi Nhân Tôn bỏ việc đi tu, người
kế tục ông là Anh Tôn đã nổi tiếng về chơi bời hư hỏng. 


Các sách sử cũ đều viết
và Ngô thì Sĩ cũng viết rằng một lần khi
Thượng hoàng Nhân Tôn từ Thiên Trường về
Kinh sư, mọi người trong ngoài đều không biết; vua uống rượu xương bồ quá say,
Thượng hoàng đi xem khắp cung điện suốt hai khắc đồng hồ, chuẩn bị đi ăn cơm, vua vẫn chưa tỉnh.


Cũng vua Anh Tông này, theo cách miêu
tả của Ngô Thì Sĩ phải kể là vị vua rất lông bông.“Vua thích vi hành, cứ ban
đêm ngồi kiệu cho mười hai người thị vệ theo, đi khắp trong kinh kỳ đến gà gáy
mới về cung” (Tr 394 sđd )





Ở trên đã nói, nếu lấy khoảng cách
là 40 –đến 50 năm sau chiến thắng thì ông vua nhà Trần trị vì lúc ấy là Trần Dụ
Tông. 


Ông này mới thật hoàn toàn tiêu biểu
cho tình trạng suy đồi của vua quan nhà Trần thế kỷ XIV.


Về Dụ Tông những năm cuối đời, Ngô Thì Sĩ  có lần buông một câu gọn ghẽ: “Việc làm rối loạn đạo trời, khiến cho Dụ Tông tinh còn mà thần
mất, người khỏe mà tâm đã chết, tối tăm càn rỡ vào tận máu thịt”.


Thời Dụ Tông cũng là thời Chu Văn An
dâng sớ xin chém mấy người gian nịnh. Bởi vậy, Ngô Thì Sĩ  lại viết thêm: 


"Cho dù Chu Văn
Trinh muốn lấy nghĩa lý mà chữa, cuối cùng cũng không chữa nổi.” (tr 443)





 Trong bài viết về Trần Khánh Dư, tính
chung cả hàng ngũ vua quan đương thời, tôi đã từng tạm khái quát “từ những người anh
hùng có công, nhiều người trong họ trở thành những viên quan cai trị có tội”.


 Nhưng mà đấy mới chỉ là nói một cách chung.


 Thực ra ban đầu các vị ấy đâu đã phải hoàn
toàn hư hỏng.


Về sự suy đồi đạo lý của họ, Ngô Thì Sĩ đưa ra một
sự so sánh:


+năm 1296, một viên quan thượng phẩm
là Nguyễn Hưng phạm luật đánh bạc liền bị đánh chết(tr 396).


+thế mà đến năm 1362, vua Dụ Tông lại
gọi người vào chơi bạc, để mưu đóng vai nhà cái một vốn bốn lời “một lần đặt
là 300 quan, ba lần đã gần nghìn quan rồi".


 Dụ Tông cũng ban lệnh cho tư nô cày một mẫu
đất ở bờ bắc sông Tô Lịch để trồng hành trồng tỏi, rau dưa rồi đem bán kiếm
tiền. 


Rồi làm cả quạt mang bán (tr. 453).





Theo cách miêu tả của  Ngô Thì Sĩ, Dụ Tông có một tính cách rất hiện
đại là biết dùng bộ máy quyền lực để kiếm tiền trong quan lại cấp dưới và cả dân.


ĐVSKTB ở tr 455 kể một chuyện xảy ra
từ đời vua cha là Minh Tông. Thấy một nhà buôn là Ngô Dẫn giầu lên nhờ kiếm
được ngọc quý, vua gả ngay con gái cho Ngô Dẫn. Nhưng Dẫn cậy mình giàu có, lấy
vợ lẽ và ở với vợ lẽ, lại tỏ ý khinh bỉ công chúa. Đến đời Dụ Tông. Nghe lời than phiền của em,
Dụ Tông liền tỏ uy quyền bằng cách  ra
lệnh tịch thu toàn bộ của cải.





Về việc vua Dụ Tông đào hồ làm nơi
vui chơi mà trên kia cuốn LSVN của khoa Sử ĐHSP đã viết, Ngô Thì Sĩ còn ghi rất
rõ:


+ trên hồ này, trên bờ trồng tùng
trúc và các loại cây cùng hoa quý cỏ lạ. 


+ Lại nuôi nhiều chim quý, thú lạ ở
trong vườn. 


+Đối với hồ nước mặt, sai bắt các con vật ở biển như đồi mồi cá, ba
ba đen về nuôi, lại sai người ở Hóa Châu (Thuận Hóa) chở cá sấu thả vào.





Ngô Thì Sĩ cho rằng cả Tùy Dạng Đế,-- nhân vật nổi tiếng tàn bạo trong lịch sử
Trung Quốc -- cũng không tìm được niềm vui tương tự.


 Sau khi bảo rằng cách vui của Dụ Tông lúc ấy “có
thể nói là vui mà quên chết” Ngô Thì Sĩ viết tiếp  “Người mải kiếm tiền và mải vui sẽ là người
lơi lỏng lơ là trong việc trị nước”.


 Ông thầm nói với hậu thế chúng ta “Giả sử
chuyển trí tuệ khôn khéo ấy để trị dân trị nước thì làm gì lo đến sự bại vong”
(tr 456).


 Mở rộng ra nữa, ông cảnh báo về hậu quả mọi tội lỗi
của các nhân vật quốc gia: “trong thì mê gái đẹp, ngoài thì mê săn bắn, thích
rượu, ham âm nhạc. Làm nhà cao, đắp tường đẹp. Phạm điều này trong bốn điều này
chưa từng ai không bị diệt vong ( cũng tr 456).








Về đức hạnh của các quan đầu triều đương
thời, Ngô Thì Sĩ có nêu một trường hợp là Trần Khắc Chung.


Ông này thường “cùng với học sĩ
Nguyễn Sĩ Cố đánh cờ hàng mấy ngày liền, đến nổi ngồi ngay bàn cờ mà ăn cháo,
không nghỉ chút nào, được thua một vài quan tiền cũng cố làm. Bạn bè có việc mở
tiệc đầy năm cho con hoặc mừng nhà hoàn thành, hễ mời là đến. Nhà thầy thuốc có
món ăn cũng mò mà đến, quân lính thết đãi ăn uống thì khen vợ họ để nịnh (sđd
tr. 431).





Trang 445 của cuốn ĐVSKTB kể năm 1354
có nạn đói, ngoài ra nhân dân lại khổ vì trộm cướp, có người xưng là cháu ngoại
của Hưng Đạo Vương tên là Tề tụ hợp các gia nô bỏ trốn ở các xứ Lạng Sơn, Nam
Sách.


 Con cháu các cụ có người cũng không sống nổi, hỏi người thường ra sao?





Trong việc các vua Trần nửa cuối thế kỷ XIV đối xử với Chiêm Thành,
các nhà sử học hiện đại thường cũng quên không ghi rõ một điều mà Ngô Thì Sĩ cùng nhiều ngòi bút sử học chân chính hồi xưa đã viết. Đó là nhiều lần người Chiêm đã vào cướp
phá cả những vùng như Thuận Hóa, và quân ta thua chạy. Đến đời Nghệ Tông, quân
Chiêm đến sát kinh sư. Đến đời Duệ Tông thì xâm phạm xe vua.


Có lần một vua Chiêm là Chế Mỗ bị
người trong nước đánh đuổi, vua Trần chở che và cho người đưa về, nhưng thất
bại, Chế Mỗ chết trong cảnh đơn độc trên đất Việt.


 Nói chung trong cách đối xử với các vua Chiêm, vua ta nhiều khi tiền hậu bất nhất, dám tùy tiện làm nhiều chuyện mà trong quan hệ giữa các
quốc gia  không được phép.





Nhìn chung về đội ngũ quan chức của
nhà Trần suốt thế kỷ XIV, đọc Ngô Thì Sĩ, người ta có thể nhận xét là sau khi đánh xong giặc
Nguyên, chả ai biết làm gì để khôi phục lại tình hình đất nước đã tiêu điều tan
nát trong chiến tranh. Trên thì không có chính sách, cấp dưới thì không có
người hiểu biết mà cố vấn cho vua.





Một đoạn có giọng văn bia Ngô Thì Sĩ về Dụ Tông, mà cũng là về tình trạng đổ đốn của con cháu các bậc anh hùng năm xưa:


“Dụ Tông lên ngôi 15 năm, sử chép 6
lần nhật thực, hạn hán đế 3 lần. Một lần sâu keo mất mùa hàng năm. Đến khi ấy
từ mùa xuân đến mùa thu núi lở động đất lụt hạn, sét đánh, không tháng nào là
không có. Trời phạt tội dâm ác đến cực độ, răn đe nảy ra chính sự lười biếng,
thế mà cha con vua tôi trong một thời vẫn bình thản như thường. Kẻ trên
không có lòng thành khẩn xét mình, kẻ dưới không có lời tâu cứu giúp thời cuộc,
coi thường điều trời răn không biết sợ. Khinh bỏ việc người không biết lo.
(
VTN nhấn mạnh). Sang năm sau, Minh Tông qua đời, Dụ Tông thỏa lòng xa xỉ, giặc
giã nổi lên từng bầy, việc thờ cúng không ra lề lối, ngôi báu nhà
Trần suýt di chuyển về họ Dương" ( tr 448).





Mấy điều tổng kết tạm thời:





I/Nếu lịch sử Việt Nam thường chỉ
được quy kết vào lịch sử chống ngoại xâm, thì việc ghi chép về các thời hậu
chiến của người đương thời đã ít, đến các sử gia hiện đại, việc này lại càng bị
lảng tránh.


Điều đó có thể  giải thích như sau:


n    Đối với người xưa, nó chứng tỏ xã hội Việt Nam thực ra vẫn chưa thực
sự hình thành, quốc gia chúng ta vẫn giống như một đạo quân hơn là một xã hội
sống bằng làm ăn kinh tế và hướng tới phát triển.


n     Đối với các sử gia đương đại, nó càng
chứng tỏ chúng ta chỉ mới có một nền sử học phục vụ cho cuộc chiến đấu trước mắt. Dù đã mấy chục năm ra khỏi chiến tranh nền sử học ấy vẫn chỉ xoay đi xoay lại các bài bản
cũ, cách làm cũ.  Chúng ta thiếu các nhà trí thức biết nhìn lịch sử trên cả chặng đường dài và bằng con mắt của con người hiện đại.





II/Khi miêu tả các cuộc chiến tranh
chống ngoại xâm, các nhà sử học hôm nay thường chỉ ghi chép những điều tốt đẹp mà không ghi những mất
mát đau thương mà chiến tranh mang lại. 


Mà mất mát đau thương nhất của chiến
tranh ở VN là gì? 


Là cả cơ chế xã hội bị giải thể, trong đó bộ phận quan chức
là bộ khung xã hội thì trở nên suy đồi  không thể cứu vãn.


Ta thường chỉ nói tới mặt tích cực
của quan chức trong thời chiến. 


Cái đó thì đáng trọng thật. 

Nhưng mặt khác phải thấy sinh ra trong thời chiến, họ chỉ biết việc binh đao mà
không biết gì việc làm ăn và quản lí xã hội. 


Được làm vua thua làm
giặc
, kẻ võ biền chiến thắng tự dành cho mình tính chính danh trong việc quản
lí đất nước. 


Cậy là có công cứu nước, họ buộc cộng đồng mãi mãi mang ơn và tự cho mình có toàn quyền bóc lột đàn áp dân chúng.


Trong việc học hỏi và tiếp thu văn hóa Trung Quốc, chúng ta thường chỉ học
lỏm về một số phương diện văn hóa; còn  chính bộ phận văn hóa quyền lực là phần
văn hoá rất thâm hậu trong văn hóa Trung Quốc thì chúng ta lại không hề tiếp nhận không học theo một cách bài bản.








III/Một thực tế của các vương triều
hình thành sau khi chiến thắng là chỉ được một hai đời, đến các đời sau đều đồi
bại đi rõ rệt. Trên đã nói những người đánh giặc giỏi chưa chắc đã là những người quản lý
xã hội giỏi. Giờ phải nói thêm con cháu các bậc anh hùng trong thời chiến không mấy khi là
những kẻ tử tế biết sống ra người trong thời bình. Đinh Bộ Lĩnh, Lê Đại Hành là thế. Nhà Trần là
thế. Sau này là Nguyễn Huệ. Quang Trung xuất sắc bao nhiêu thì đến Quang Toàn
hèn kém bấy nhiêu.




















































































































Tôi nhớ một nhà xã hội học lớp trước đã nhận xét là ở
Việt Nam chỉ có giai cấp cầm quyền mà không có bộ phận quý tộc được hình thành nhiều đời và có văn hóa.
Chỉ có triều Nguyễn ở đầu thế kỉ XIX rút kinh nghiệm được các triểu trước và
tạo sự liên tục suốt bốn đời vua liền. Đó là  bước tiến bộ của lịch sử. Nhưng với con người thời nay, với các
sử gia Hà Nội trong 70 năm qua,  thì triều
Nguyễn lại không hề được quan tâm và rút kinh nghiệm. Chỉ toàn những lời đả kích phê phán.





Thứ Tư, 27 tháng 5, 2015

Nhóc tì của sao Việt nào đáng yêu nhất?

Những nhóc tì của sao Việt cũng được quan tâm không kém gì bố mẹ của các bé.

Subeo
Nhóc tì sao Việt nào đáng yêu nhất?

Bé Subeo tên thật là Nguyễn Quốc Hưng, năm nay Subeo được 5 tuổi. Subeo là“cục cưng”của Hồ Ngọc Hà. Ngoài thời gian phải làm việc thì thời gian còn lại “Nữ hoàng giải trí” thường dành trọn cho con trai. Khi điều kiện cho phép, cô cũng thường mang Subeo đi diễn cùng mình khắp nơi để cho đỡ nhớ con.

Nhóc tì sao Việt nào đáng yêu nhất?
Con trai Hà Hồ có được phong cách thời trang chất không thua gì mẹ. Hai mẹ con thường diện đồ ton sur ton
Ngay từ khi chào đời, Subeo đã được truyền thông quan tâm và săn đón, nhưng  Hồ Ngọc Hà và gia đình giữ kín, không bao giờ hình ảnh Subeo được xuất hiện trên bất kỳ phương tiện truyền thông nào. Cho đến năm 2013, khi con trai đã lớn và thường đi theo mẹ thì hình ảnh của Subeo mới được lộ diện trước công chúng. Ngay từ khi hình ảnh Subeo được bật mí, nét dễ thương, đáng yêu của Subeo đã chiếm được tình cảm của khán giả.
Bảo Nam
Nhóc tì sao Việt nào đáng yêu nhất?
Bảo Nam là kết quả từ cuộc hôn nhân ngắn ngủi của Quang Dũng và Jennifer Phạm. Bé Bảo Nam đã được gần 7 tuổi, càng lớn càng bảnh bao và chững chạc. Bảo Nam là bản sao của bố Quang Dũng. Từ khi Quang Dũng và Jennifer Phạm chia tay, bé Bảo Nam sống ở Mỹ với bà ngoại. Vào mỗi dịp nghỉ hè hoặc lễ Tết, cậu bé được mẹ đón về nước để thăm gia đình. Quang Dũng cũng thường đi diễn bên Mỹ và dành thời gian thăm con. Theo chia sẻ của Quang Dũng, cậu bé khá ít nói, sống tình cảm và gần gũi cả bố lẫn mẹ.
Bé Bảo Anh (Bo - con gái MC Phan Anh)
Nhóc tì sao Việt nào đáng yêu nhất?
Bé Bo được khán giả biết đến khi tham gia chương trình Bố ơi mình đi đâu thế. Bo là cô gái sống rất tình cảm và yêu bố. Dù đôi lúc ông bố khó tính hay nghiêm khắc với con gái nhưng Bo vẫn rất yêu bố. Và từng trả lời câu hỏi muốn được đi vòng quanh thế giới với ai thì bé nói là bố.
Tê giác
Nhóc tì sao Việt nào đáng yêu nhất?
Cậu con trai của Hoàng Bách cũng lộ diện trong chương trình Bố ơi mình đi đâu thế. Bo là cậu bé rất tình cảm, rất thương bố. Tê giác bình thường cũng “khá lỳ” và hay khóc nhè không không được những gì mình muốn nhưng bé rất đáng yêu bên cạnh bố của mình.
Sonic
Nhóc tì sao Việt nào đáng yêu nhất?
Cậu con trai Kim Hiền càng lớn càng bảnh bao. Sonic cũng thiệt thòi từ nhỏ vì bố mẹ không sống chung, Kim Hiền khá bận rộn với công việc, dù vậy cô vẫn dành nhiều thời gian chăm sóc con trai. Hiện tại Kim Hiền đã tái hôn và Sonic thường đi chơi cùng mẹ và bố sau. Cuộc hôn nhân thứ 2 không chỉ mang lại cuộc sống hạnh phúc mới cho Kim Hiền mà còn mang lại cho Sonic một người cha.
Bé Thỏ
Nhóc tì sao Việt nào đáng yêu nhất?
Từ khi còn ẵm trên tay thì bé Thỏ đã được mẹ mang lên sàn diễn trong chương trình thời trang. Bé Thỏ xinh xắn đáng yêu. Tuy nhiên, Xuân Lan làm mẹ đơn thân nên bé Thỏ cũng chỉ quấn quít bên mẹ. cho đến hiện tại, Xuân Lan vẫn chưa tiết lộ danh tính ba của con gái mình.
Cà Pháo
Nhóc tì sao Việt nào đáng yêu nhất?
Cà Pháo là con trai của Lê Phương và Quách Ngọc Ngoan. Cậu nhóc khá ngoan và giống nét đẹp của mẹ. Sau thời gian chung sống ngắn ngủi thì cặp đôi đã ly thân và hiện giờ đã ly dị. Cà Pháo sống với mẹ và luôn được mẹ chăm sóc chu đáo. Cậu nhóc cũng ngày càng đáng yêu hơn.
Bé Cà Phê
Nhóc tì sao Việt nào đáng yêu nhất?
Bé Cà Phê là kết quả tình yêu của cặp sao Thanh Thúy – Đức Thịnh. . Năm nay Cà Phê được 4 tuổi, cậu nhóc thừa hưởng cả nét đẹp của bố và mẹ, cậu bé giống bố ở khuôn miệng và là “bản sao’ của mẹ ở mọi góc ảnh đáng yêu.
Cập nhật tin tuc sao viet tại tintuc.vn
Theo Dantri

Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015

Song Hye Kyo đẹp hoàn hảo trên tạp chí Elle

Ngoài việc gửi tặng khán giả hâm mộ những bức ảnh mới nhất trên tạp chí Elle (Hàn Quốc), Song Hye Kyo còn chia sẻ với những fan yêu quý về vai diễn mới nhất của cô trên màn ảnh nhỏ xứ Hàn trong năm 2015.

Tháng 4 vừa rồi, ngoi sao dien anh Song Hye Kyo đã xác nhận thông tin, cô sẽ góp mặt trong bộ phim truyền hình Descendant of the Sun của Hàn Quốc. Đây sẽ là vai diễn mới mẻ nhất của người đẹp họ Song trên màn ảnh nhỏ xứ Hàn sau gần 2 năm vắng bóng. Sự trở lại của Song Hye Kyo với màn ảnh nhỏ xứ kim chi đã khiến các fan trong và ngoài Hàn Quốc thích thú. 
Song Hye Kyo đẹp hoàn hảo trên bìa tạp chí Elle, số tháng 6/2015.
Song Hye Kyo đẹp hoàn hảo trên bìa tạp chí Elle, số tháng 6/2015.

Trong Descendant of the Sun, Song Hye Kyo vào vai một nữ bác sĩ công tác tại vùng chiến sự. Theo dự kiến, bộ phim sẽ bắt đầu bấm máy vào tháng 6 tới. Nói về nhân vật mới của mình, Song Hye Kyo cho hay, đó là một nhân vật sáng và sẽ giúp cô tích lũy nhiều kinh nghiệm sau một loạt những vai diễn ngây thơ, trong sáng gần đây. Nhân vật của cô hoàn toàn khác với nhân vật nữ nhí nhảnh trong bộ phim "Full House" (Ngôi nhà hạnh phúc) năm 2004.
Người đóng vai tình nhân của Song Hye Kyo trong phim là nam diễn viên kém tuổi Song Joong Ki, anh vào vai đội trưởng một đội bảo vệ hòa bình của LHQ. Tình yêu của họ thăng hoa và phát triển trong thời gian gắn bó và cùng đương đầu với những thử thách ở vùng chiến sự. Song Hye Kyo hết lời khen ngợi Song Joong Ki: “Trái với ngoại hình ngọt ngào, Joong Ki thực sự rất nam tính và đàn ông”. 
Ngôi sao điện ảnh xứ kim chi thừa nhận, cô là một phụ nữ nhạy cảm và dễ khóc.
Ngôi sao điện ảnh xứ kim chi thừa nhận, cô là một phụ nữ nhạy cảm và dễ khóc.

Ngôi sao 33 tuổi cũng thừa nhận rằng, trong một loạt những vai nữ chính mà cô đã đảm nhiệm trên màn ảnh nhỏ, Choi Eun Suh của Trái tim mùa thu (năm 2000) có lẽ là nhân vật gần gũi và giống cô ngoài đời nhất. “Tôi là một người khóc dễ dàng và giống trẻ con”, ngôi sao xinh đẹp thừa nhận. Nhân vật Choi Eun Suh cùng số phận buồn của cô đã giúp Song Hye Kyo nổi tiếng khắp châu Á. Đây cũng là vai diễn đầu tiên giúp Song Hye Kyo tiếp cận khán giả yêu điện ảnh và rồi bị "đóng khung" vào những dạng vai bi.
Song Hye Kyo thú nhận, cô là một phụ nữ nhạy cảm và dễ xúc động. Song, cô cũng là người yêu thích sự tự do và công việc của một diễn viên mang lại điều đó cho cô. Mới đây, Song Hye Kyo cũng đã mở tài khoản Instagram để có thể dễ dàng giao tiếp và trò chuyện với mọi người. Song Hye Kyo cho biết, đây là cách để cô dẹp bớt bản tính nhút nhát và ngại giao tiếp của bản thân.
Cập nhật tin tuc sao Viet tại tintuc.vn
Nguồn:zing

Thư Kỳ quyến rũ, đọ sắc cùng "đàn em" Angelababy

Ngôi sao điện ảnh nổi tiếng xứ hương cảng Thư Kỳ và nữ diễn viên trẻ Angelababy đang có mặt tại Cannes, Pháp để tham dự LHP quốc tế Cannes lần thứ 48. Ngày 15/5, hai cô gái xinh đẹp đã có buổi ra mắt và tiếp xúc với báo giới quốc tế.

Angelababy sánh đôi cùng đàn chị Thư Kỳ trong buổi họp báo giới thiệu bộ phim
Angelababy sánh đôi cùng "đàn chị" Thư Kỳ trong buổi họp báo giới thiệu bộ phim Ma thổi đèn, một bộ phim của điện ảnh Hoa ngữ được giới thiệu tại LHP quốc tế Cannes lần thứ 48. 

Angelababy sánh đôi cùng đàn chị Thư Kỳ trong buổi họp báo giới thiệu bộ phim
Hai người đẹp thuộc hai thế hệ khác nhau của điện ảnh Hoa ngữ cùng tỏa sáng trước các phóng viên theo những cách khác nhau.

Angelababy thuộc lớp diễn viên thế hệ 9X còn Thư Kỳ đã cận kề tuổi 40.
Angelababy thuộc lớp diễn viên thế hệ 9X còn Thư Kỳ đã cận kề tuổi 40. 

Dù hơn đàn em tới gần hai chục tuổi nhưng Thư Kỳ thực sự vẫn rất trẻ đẹp!
Dù hơn đàn em tới gần hai chục tuổi nhưng Thư Kỳ thực sự vẫn rất trẻ đẹp!

Nụ cười rạng ngời và quyến rũ của một trong những biểu tượng gợi cảm của màn ảnh Hoa ngữ.
Nụ cười rạng ngời và quyến rũ của một trong những "biểu tượng gợi cảm" của màn ảnh Hoa ngữ. 

Nụ cười rạng ngời và quyến rũ của một trong những biểu tượng gợi cảm của màn ảnh Hoa ngữ.
Bạn gái của mỹ nam Huỳnh Hiểu Minh ngày càng nổi tiếng. Đây là năm đầu tiên cô được tham dự LHP quốc tế Cannes nên Angelababy không tránh khỏi những bỡ ngỡ. 

Angelababy và Thư Kỳ cùng các đồng nghiệp trong bộ phim

Angelababy và Thư Kỳ cùng các đồng nghiệp trong bộ phim
Angelababy và Thư Kỳ cùng các đồng nghiệp trong bộ phim Ma thổi đèn cùng lưu lại những khoảnh khắc tuyệt đẹp tại Pháp.

Angelababy và Thư Kỳ cùng các đồng nghiệp trong bộ phim
Thư Kỳ và bạn diễn Trần Khôn cùng giao lưu và trả lời các câu hỏi của giới truyền thông về bộ phim mới của họ.

Thư Kỳ quyến rũ, đọ sắc cùng đàn em Angelababy
Trong những ngày ở Pháp tham dự LHP quốc tế Cannes, Angelababy và Thư Kỳ còn tranh thủ đi tham quan và chụp ảnh kỷ niệm tại thành phố biển tuyệt đẹp này.

Hai người đẹp cùng diện đồ trắng và tạo dáng dưới cái nắng và gió của thành phố Cannes.
Hai người đẹp cùng diện đồ trắng và tạo dáng dưới cái nắng và gió của thành phố Cannes. 

Angelababy khoe những bức ảnh chân dung tuyệt đẹp và tươi tắn của cô trên trang cá nhân.

Angelababy khoe những bức ảnh chân dung tuyệt đẹp và tươi tắn của cô trên trang cá nhân.

Angelababy khoe những bức ảnh chân dung tuyệt đẹp và tươi tắn của cô trên trang cá nhân.
Angelababy khoe những bức ảnh chân dung tuyệt đẹp và tươi tắn của cô trên trang cá nhân.

Trong khi Thư Kỳ thể hiện phong cách thời trang tinh tế và rất có gu.

Trong khi Thư Kỳ thể hiện phong cách thời trang tinh tế và rất có gu.
Trong khi Thư Kỳ thể hiện phong cách thời trang tinh tế và rất có "gu"

Nguồn:dantr

Thứ Hai, 18 tháng 5, 2015

Mai Thảo - khao khát và bất lực


Tìm lại Mai Thảo qua một số bài viết trên Sáng tạo, 
Khởi hành , Vấn đề





 Khoảng
những năm 73-74, kho báo chí văn nghệ Sài Gòn ở Thư viện quân đội  Hà Nội chỉ có hai tạp chí Bách khoaVăn, vì thế văn học miền Nam với tôi lúc ấy chủ yếu là Nguyễn Hiến Lê,
Võ Phiến, Vũ Hạnh, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Mộng Giác, Ngụy Ngữ, Trần Thị Ng.H...


Tới mấy tháng hè 1976, khi
vào Sài Gòn tìm lại báo cũ ở một kho Thư viện… tôi mới có dịp đọc rộng hơn. Đọc
Khởi hànhThời tập, làm quen với Vũ Khắc Khoan, Viên Linh, Nguyễn Nhật Duật, Cao
Huy Khanh. Trở lại Sáng tạoNghệ thuật, biết thêm các tác giả lớp
trước, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sĩ, Trần Thanh Hiệp.


 Mai Thảo 1973-75 là một cái gì đã thành hình
và lẫn đi giữa những người khác. Một người từ xa nhìn vào và chỉ đọc lõm bõm như
tôi không có ấn tượng gì rõ rệt.


 Nhưng trở về thời 1968-70, nhất là đặt ông
trong cái mạch chung văn học miền Nam “thời kỳ góp đá”, mới thấy Mai Thảo rõ
hơn.




        Đọc ông ở Hà Nội trong chiến tranh - tức là
đọc trong ám ảnh của tiếng súng, các đợt đi B, các chiến dịch-- điều mà tôi cảm
thấy rõ nhất chỉ là những tiếng nói gay gắt của con người trước sự xô đẩy của
hoàn cảnh, nó là một thứ phản ứng của người ta trước tình hình thời sự.


       Với những gì đọc được về sau thì không chỉ có
thế.


     Cộng thêm với những hiểu biết về các
tác giả nữ Nhã Ca, Thụy Vũ, Trùng Dương, cộng thêm với những tác giả không
thuộc nhóm phái nào rõ rệt như Nhật Tiến, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, hoặc lùi về trước cả Vũ Bằng…, tôi nhận ra
là  có cả một nền văn học mà người ta đã đặt
vào đó nhiều tâm huyết để dày công xây dựng. Người ta đã học hỏi, đã chăm chỉ
viết lách và trước khi chán chường xoay ra đùa bỡn, người ta vẫn làm được một
cái gì đó ở cái mức tối ưu mà hoàn cảnh cho phép.


Riêng về sáng tác, thú thực là tôi không thấy
hấp dẫn bởi một cuốn tiểu thuyết nào của Mai Thảo.


 Nhà phê bình Thụy Khuê có lần cho biết là tác giả Để tưởng nhớ mùi hương thường chẳng giữ lại bất cứ cuốn
sách nào, lý do tôi hiểu chính là ở cái quan niệm về người làm nghề của ông
cũng như cách ông tự đánh giá mình. Hình như bốn năm chục cuốn tiểu thuyết ông
chỉ viết cho vui, viết để lấp đầy những trang báo mà ông tham gia chủ trì mà
cũng là cái cớ để đi lại với bạn bè.


Sự có mặt của ông hiện ra theo
một cách khác. Những tùy bút của Mai Thảo, các bài viết có tính tuyên ngôn các
bài viết về bạn bè của ông thì tuyệt. Tuyệt cả trong những ý tưởng nồng nhiệt
về việc xây dựng một nền văn nghệ lẫn lối hành văn lôi cuốn, cứ như kéo người
ta vào với trang viết.


Tôi cảm thấy phải gọi Mai
Thảo là một nhà hoạt động văn học hàng đầu mới đúng. Ông là người cầm cờ, nhà đạo diễn. Ông sống chân tình kỹ
lưỡng với những đồng nghiệp. Lại có thể nói, với đời sống văn học thời ấy, đó là “đầu tầu’ (chữ của Thụy Khuê) là một
thứ sếp sòng một thứ ông chủ.


 Vào thời điểm tất cả còn đang nhộn nhạo và
lòng người thì đang phân tán, con người từng trải lịch lãm ấy đứng đó để bày tỏ
quan niệm và hướng dẫn  thúc đẩy đồng
nghiệp mỗi người một việc. Sau những ngày sống  bơ vơ và nhiều mặc cảm tại Hà Nội trước 1954,
nay những người như ông đàng hoàng cảm thấy có một trường hoạt động mới và muốn
chung tay xây dựng một nền văn nghệ mới.


 Phóng về
phía trước, kiến thiết xây dựng làm ra chính mình và một nền văn nghệ của mình
…ông
tạo ra cả một khí hậu cho nhiệt tình cho ham muốn. Phải làm vậy, phải làm những
việc mà ông bảo là Hà Nội đáng làm mà lại không làm. Có lần Mai Thảo  viết thẳng trên trên Sáng tạo  là hãy lo tạo
ra  Sài
Gòn  thủ đô văn hóa Việt Nam
.


 Và Mai Thảo có đủ cả nhiệt tình lẫn kiến thức
làm việc đó. Con mắt ông nhìn thấu tiền chiến lại nhìn rộng ra tương lai. Cái
đích mà ông muốn hướng tới thì cao đẹp ngang tầm lịch sử.


      Đến
thời kỳ sau, thời thế chẳng được như ý muốn, Mai Thảo lại là người nói hay nhất
về những cay đắng bất mãn bất lực mà con người miền Nam lúc ấy nhất là các văn
nghệ sĩ tâm huyết phải chịu. Trong cái việc bơi ngược dòng đời con người ấy vẫn
giữ nguyên khí phách và sự sáng suốt.


       Kể cả những con người ở những phương
trời  khác vẫn có thể tìm thấy ở Mai Thảo
những bài học về việc làm người một cách tích cực.


    


      Một sức ám ảnh nữa của Mai Thảo đối với tôi
đến từ bút pháp của ông, dấu ấn của một người Hà Nội.


     Cuối 1976 tôi có may mắn được
gặp Nguyễn Hiến Lê (do Nguyễn Mộng Giác dẫn tới). Nhân hỏi ông Nguyễn về đủ chuyện nghề nghiệp,
tôi cũng nhân dịp  bầy tỏ sự khâm phục về
đặc sắc của các cây bút miền Nam. Và tôi không khỏi đả động tới Mai Thảo,
cái hơi văn mãnh liệt, những đoạn văn chất ngất cảm xúc và cái cú pháp trùng
điệp của Mai Thảo. Khi đọc nhà văn này, những cảm giác về một Hà Nội hào hoa lịch
sự và cả đàng điếm nữa, luôn trở lại trong tôi. Nên dùng chữ gì để tả cái bút
pháp ấy – tôi mang câu hỏi vẫn đặt ra cho mình ra hỏi ông Nguyễn:


-     
Thưa bác liệu có
thể  dùng chữ kiêu sa?


-     
Được có thể được.


So với cái bút pháp tối xám
và cái giọng văn có vẻ hơi khô khan  như Cát lầy của Thanh Tâm Tuyền thì cái hồn
hển nhiệt tình và cả cái bay bướm làm dáng của Mai Thảo có vẻ như không được
hiện đại lắm. Nó nhiều lời quá nồng nã quá. Nó gợi nhớ tới một cách nói chanh
chua điệu đàng như ở Nguyễn Tuân ngày nào. Giữa thời chiến nó là cái gì lạc
lõng. Nó đã lỗi mốt.  Nhưng có hề gì. Nhờ
thế người ta lại không quên được Mai Thảo, thế là được rồi.


Mươi năm gần đây, các đồng nghiệp
trẻ của tôi bên Viện văn học  và các
trường đại học say lý luận khi tìm cách thoát ra giọng văn quê mùa và cái khô
cứng một thời thường ngong ngóng hướng về các thứ lý luận phương Tây.  Hướng về văn học Sài Gòn, các bạn để hết tâm trí
vào cách tân nghệ thuật của các nhà văn trong ấy. Thanh Tâm Tuyền  chẳng hạn, trở thành một kho tàng vô giá. Và
cây bút của Dzư Văn Tâm xứng với  điều
đó.


 Phần tôi, tìm về văn học miền Nam nói chung, tôi
thấy gần gũi hơn ở cái ý thức làm người ý thức làm nghề của các nhà văn trong
ấy. Luôn luôn tôi nhìn các nhà văn SG trước 1975 như là một sự nối dài của cái
thời tiền chiến huy hoàng.


Trong đời làm nghề cũng
nhiều cay đắng buồn phiền của mình, tôi sẵn sàng đọc đi đọc lại những đoạn văn
hay nhất của Mai Thảo. Tôi tìm thấy ông một trong những định nghĩa về nghề văn
ở VN mà bọn tôi luôn luôn kiếm tìm. Có thể người ta có một thứ năng khiếu trời
phú nào đó có thể không, nhưng để làm nghề này, người ta phải biết khao khát,
phải có mong mỏi. Phải say, phải muốn. Nồng nhiệt khôn cùng. Bao nhiêu cũng là
không đủ. Và trước đó, phải biết thật nhiều, biết cái hơn cái kém của những
người đi trước mình cùng là cái mạnh cái yếu của chính mình. Giữa cái thời của
những người đọc bận bịu, sẵn sàng phủi tay rời bỏ trang sách, phải có cái giọng
văn níu kéo người ta lại để người ta không thờ ơ bỏ qua những trang viết của mình. Phải viết như xiết
ngòi bút trên trang giấy và để lại một vết hằn lên trong văn học. Mai Thảo là
thế.








Những đoạn văn sau đây
là  trích ra  từ những ghi chép trong  sổ tay khi đọc Sáng tạo Nghệ thuật Vấn đề…  ở một thư viện Sài gòn mà trên đây đã kể.


Xuất xứ không đầy đủ. Đôi
khi có thể là một hai câu chữ không chính xác.




Ba mươi chín năm trước,
trong hoàn cảnh đơn độc của một người mới tới một thành phố xa lạ và làm cái
công việc thuộc loại không được phép, tôi tránh sao khỏi những  giây phút bao gồm sợ hãi, ngại ngần lúng túng
và cả tự ngờ vực nữa. Nhưng tôi còn nhớ những trang viết của những nhà văn trên
Sáng tạo, Nghệ thuật, Khởi hành Thờ tập ,
Vấn đề…
đã giữ cho tôi bình tĩnh trở lại. Nên mặc dầu là những trang  tôi chép ngày ấy còn khá nhiều lỗi, song khi
đọc lại, tôi tin là cái hơi văn của những ngòi bút như Mai Thảo thì tôi vẫn giữ
được. Công việc tạm thời chỉ là sơ bộ chỉnh lý lại và đặt cho các đoạn văn ấy
những đầu đề  ngắn gọn.





                                               NHỮNG
PHÁC HỌA CHÂN DUNG


 Thói quen nhìn thấy Mai Thảo xuất hiện trên
trang báo nào phải cố tìm đọc ngay đến với tôi bắt đầu từ những chân dung các
đồng nghiệp mà ông phác họa.             




Về Vũ Khắc Khoan






Vũ Khắc Khoan. Một mái tóc đã chiều của một tâm hồn
còn sớm. Những buổi chiều Sài Gòn buồn bã. Những buổi chiều Đà Lạt mù sương.
Mỗi ngày qua thêm một sợi bạc. Âm thầm đe doạ, lặng lẽ tràn đầy. Ly rượu nửa
khuya là ly thứ mấy. Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu. Muốn một thời đại hoàng
kim. Thêm một tấm lòng bè bạn. Mỗi cơn say là một cảm khái ngà ngà, Vũ Khắc
Khoan! Của một tự hỏi, tự hoài nghi và tự bâng khuâng lắm lắm về cái bình sinh
mà mình chưa đạt. Ta đã dùng chi đời ta chưa?


Ai đã dùng chi đời ta chưa?


       
 Ngó ra cái chung, cái đại cuộc
cái toàn thể, nhìn trở vào cái riêng tây, rừng ấy mung lung, núi ấy chập chờn,
nghe từng phiến đá tâm linh rụng dần những giấc mơ không thành tựu. Và tôi, một
trong ít những người bạn của Vũ Khắc Khoan, tôi muốn nhìn ngắm anh như một cần
thiết. Trong cuộc sống hàng ngày thôi, có rất nhiều những giờ phút buồn bã của
chúng tôi có Vũ, người ta nhớ thêm được những điều đáng nhớ, quên mau được
những điều đáng quên và cuộc đời xem được là nhẹ hơn hoặc với đời là nặng hơn
cái trọng lượng tầm thường và phí lý của nó.





 Cả về con người lẫn tư tưởng của Vũ Khắc Khoan
đến bây giờ, tôi cũng chưa đọc gì và hiểu gì. Nhưng đọc đoạn văn trên, tôi thấy
gần ngay với Vũ Khắc Khoan như đã thấy gần Mai Thảo.











Về Trần Huyền Trân






                         Phượng  hoàng
gẫy cánh
.


Đời sống của những người viết văn chúng ta là cái hình
ảnh đó của một vụ mùa những hạt giống sớm, những nhánh mạ đầu có thể rất non
xanh, những mùa nửa chừng mùa, không rực rỡ vàng thành cái nườm nượp mênh mông
cánh đồng lúa chín. Người viết tích luỹ vào hồn mình một vốn sống đầy như biển
đầy, nhưng cái vốn sống kia chưa thể buông thành một ngọn triều vượt thoát khỏi
những bến bờ nội giới, tiếng nói đã tắt, cây bút đã rơi, tròng mắt đã khép, hơi
thở đã đứt, người viết đã chết. Thực tế của người viết đất Việt là một thực tế
mẹ kiếp. Muốn chửi thề. Muốn văng tục. Muốn nhỏ lệ.





Thuế sống rồi con đóng nặng nề


Rồi con viết mướn hay may thuê


Tìm đâu nương náu đi đâu thoát.

Hay sớm lang thang tối ngủ hè






Trần Huyền Trân không tìm được nương náu ở đâu hết.
Không đi đâu thoát hết. Kẻ thù của những người viết văn đất Việt không thoả
hiệp trước hết là thực tế khốn nạn quật đập tàn nhẫn, và thực tế đắc thắng ngửa
cổ cất cao điệu cười khả ố mất dạy. Hai năm nay tôi tìm tài liệu viết cho một
chương trình vô tuyến về thơ và con người Trần Huyền Trân mà không được. Lả tả
những đề tài vụn vặt. Một vài câu thơ, người này còn nhớ, dăm bảy câu khác
người nọ may quá chưa quên. Chỉ có thế. Một hành tinh lạc lõng bay vút qua một
vòm trời nhân thế lạnh lùng, một ánh lân tinh chìm, một vỗ cánh vào hư vô trắng
và trống và phẳng. Đó, những Trần Huyền Trân của chúng ta. Xâu chuỗi những sớm
khuất phi lý là một xâu chuỗi dằng dặc hứa hẹn nối dài, không có dấu dứt. Đời
ngắn quá chừng đời. Đời ngắn không thành đời. Khổng Dương. Leiba. Quách Thoại.
Nguyễn Nhược Pháp. Nhớ thêm nữa, đầu óc choáng váng sẽ chỉ còn là một chất ngất
mộ đầy. Hằng hà âm điệu vàng  ngọc chưa
kịp thoát bay ra ngoài cổ động chồng chồng giấy trắng mực đen có lửa, có hồn,
có đời sống bắt sóng được, có ngôn ngữ làm mới, có bút pháp làm chủ sẽ được
chuyên chở vào kho tàng văn học chúng ta. Nếu những Thoại, Dương, Pháp  kia được sống qua một mùa xuân kia, thêm một
mùa hạ ấy.








Thơ Trần Huyền Trân

Tiếng thơ
Trần Huyền Trân nhọn hoắt của một mũi nhọn ý thức đâm suốt vào hình hài dầy đặc
những ung nhọt rức buốt là xã hội tiền chiến.


Lên thang nghe gió như mưa
thầm


Gác trọ không đèn hết cố
nhân


Nhấc chén nghĩ khinh người
chiến quốc


Phù hoa thường đổi lấy tri
âm





Về Thâm Tâm


Thơ Thâm Tâm
không nhiều
nhưng bài
thơ nào mang trên Thâm Tâm cũng mang tên


Thời thế tối
xám


Phẫn nộ cao
lớn


Sầu hận ngút
ngàn


Cảm khái chất
ngất





Cười vang ném chén tan tành


Khoái nghe vỡ cái bất bình
thành thơ





Thơ Thâm Tâm
chính là sự ném vỡ thời thế khốn nạn.


Thâm Tâm sống


Ngạo nghễ mà
đau đớn


Trầm tĩnh mà
nung nấu.





Về Thạch Lam


… Không hiểu ở đâu, trong một truyện ngắn nào tôi nhớ
và yêu mãi câu văn này của Thạch Lam "
Chàng thấy mình bé quá và lại đi xa"




Thạch Lam đã đi xa. Và ngoài yêu mến cái bút pháp
chuốt lọc, trong sáng và chính xác nhất của văn xuôi tiền chiến ấy hẳn muốn
nhận lấy câu văn này của Thạch Lam vào hồi tưởng, câu văn kết thúc một truyện
ngắn tả mối tình đầu như một loài hoa. 


Mỗi mùa, nàng lại cài một bông hoàng lan lên mái
tóc, để tưởng nhớ mùi hương
.



(Còn tiếp)