Thứ Hai, 31 tháng 8, 2015

Chế mìn đến đặt cạnh nhà người yêu vì bị ngăn cấm

Theo tin tuc 24h moi nhat Công an huyện Tĩnh Gia đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam Cao Đình Nam (SN 1989), ở xã Hùng Sơn, huyện Tĩnh Gia về hành vi sử dụng trái phép vật liệu nổ.

Theo kết quả điều tra của cơ quan Công an huyện Tĩnh Gia, trước đó, do bị gia đình chị N.T.H. ở xã Anh Sơn, huyện Tĩnh Gia ngăn cấm trong chuyên yêu đương nên Cao Đình Nam đã đến nhà Nguyễn Văn Tần (SN 1993), ở xã Hải Thanh, huyện Tĩnh Gia mua 80g thuốc nổ và 1 đoạn kíp nổ để tự chế thành 1 quả mìn.

Đối tượng Cao Đình Nam

Sau khi chế xong mìn, Nam đem ra đặt ở ruộng rau sau nhà chị H. rồi dùng lửa kích nổ quả mìn. Vụ nổ tuy không gây ra thương vong nhưng khiến gia đình chị H. và những hộ dân xung quanh hoảng sợ.

Ngay sau đó theo tin nong trong ngay, Công an huyện Tĩnh Gia đã vào cuộc điều tra và đã ra lệnh khám xét chỗ ở của Nguyễn Văn Tần, thu được 8 kg thuốc nổ và nhiều dây cháy chậm.

Tang vật cơ quan Công an thu giữ tại nhà Nguyễn Văn Tần

Hiện Công an huyện Tĩnh Gia đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Cao Đình Nam và áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với Nguyễn Văn Tần để tiếp tục điều tra, làm rõ.

Nguồn: tin tuc nhanh

Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015

Khuôn mặt tinh thần của một trí thức thế hệ trước 8-1945: trường hợp Đinh Gia Trinh

Lời dẫn

Phê bình văn học trước 1945 thường chỉ được các nhà nghiên cứu văn học ở Hà Nội biệt nhãn chú ý trong mấy trường hợp 1/ có liên quan tới việc tuyên truyền các quan điểm văn học mác-xít như các bài của Hải Triều, Đặng Thai Mai 2/ có liên quan tới các nhân vật sau này sẽ trở thành trụ cột trong nền văn học mới như Hoài Thanh; mà trong Hoài Thanh chỉ chu ý tới cái phần bình thơ bình văn của ông, còn những khi ông nêu vấn đề có tính khái quát như ta thấy trong bài "Một thời đại mới trong thi ca", đóng vai trò dẫn luận cho "Thi nhân Việt Nam 1932-41", thì bị xem nhẹ.



Trong khi đó, bức tranh phê bình văn học thời kỳ này – phê bình với nghĩa tìm tòi tư tưởng và định hướng cho sự phát triển văn học – thật ra phong phú hơn nhiều. Đinh Gia Trinh cũng như Lê Thanh, Trần Thanh Mại, Trương Chính, Trương Tửu, Nguyễn Đức Quỳnh … và lùi về trước là Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Kế Bính, Thiếu Sơn...từng đã mang lại cho văn học đương thời một tầm vóc tư tưởng mà nếu bỏ qua, chúng ta sẽ không hiểu được sự phát triển của đời sống tinh thần của xã hội VN trong giai đoạn tạm gọi là “bước hiện đại hóa thứ nhất” để phân biệt với “bước hiện đại hóa thứ hai" đang được tiến hành hôm nay.






I

Được hình thành với mục đích cụ thể là phục vụ tức thời cho công cuộc thực dân, nền giáo dục do người Pháp tổ chức nên ở Việt Nam từ 1945 về trước về căn bản mang nặng tính cách thực dụng và những con người được nền giáo dục đó đào tạo trước tiên thích hợp cho công cuộc cai trị, rồi sau đó nếu có làm lợi -- theo nghĩa cao sang chứ không phải nghĩa tầm thường của chữ này - cho nền văn hoá xứ sở thì cũng là chuyện ngoài ý muốn.

Dẫu sao, thay thế cho các nhà nho dần dần một lớp trí thức mới cũng đã hình thành. Hàng năm, trong khi đa số các cậu học sinh tiểu học ra trường rồi đi làm các sở tư hay gia nhập vào bộ máy nhà nước bảo hộ để kiếm sống và vốn liếng kiến thức cũng tan biến luôn trong đó, thì một số nhỏ, do những cơ may nào đó, tiếp tục được học lên. Người này vào lycée A. Sarraut. Người kia thi đậu các trường cao đẳng mới mở. Kết quả là số người so với đời sống bấy giờ có học vấn cao, có căn bản văn hoá vững vàng, số đó đông dần lên.

Mà vượt ra ngoài mong muốn của nhà cầm quyền thực dân, nền văn hoá Pháp chân chính sớm mang lại cho lớp trí thức trẻ ấy (trong đó, một só nhỏ còn vừa du học bên Pháp trở về) một óc suy xét khách quan, lối làm việc khoa học và thói quen độc lập trong tư duy.

Chẳng những thế có một quy luật thấy rất rõ đã chi phối hàng ngũ các trí thức chân chính: dù được dạy dỗ như thế nào, trước sau, họ phải trở về với cội nguồn dân tộc của mình. Cái vốn liếng văn hoá mà họ hấp thụ được trong nhà trường - nếu họ thật sự thấm nhuần - nhất thiết hướng họ vào việc soát xét lại quá khứ của xứ sở để từ đó, phác hoạ ra một đường hướng vận động tới tương lai mà họ nghĩ là nhiều phần thích hợp với dân tộc trong thời đại mới.

Đấy chính là trường hợp xảy ra với một nhóm trí thức trẻ ở Việt Nam những năm 40 của thế kỷ này, những Hoàng Xuân Hãn, Nghiêm Xuân Yêm, Phan Anh, Vũ Đình Hoè, Vũ Văn Cẩn... Sinh trưởng vào khoảng 1900 tới 1915, tới đầu 1940, họ vừa chín tới trong suy nghĩ. Tập hợp nhau lại trong một tạp chí mang tên Thanh Nghị, họ mạnh dạn trình bày những ý kiến riêng có liên quan đến các vấn đề cấp bách của xã hội. Quan điểm của họ là dân tộc và dân chủ.

Giữa các trí thức góp mặt trong Thanh Nghị suốt thời gian tạp chí này tồn tại - thực tế là một cây bút chủ lực ở đấy -, Đinh Gia Trinh (1915-1974) có một vai trò riêng biệt.

Trong khi các bạn bè khác viết về sử, về luật, về pháp quyền, về kinh tế... thì khu vực được ông đề cập tới nhiều nhất là văn chương nghệ thuật.

Với tư cách một người quan tâm tới đời sống tinh thần chung của xứ sở, ông muốn áp đặt một cái nhìn trí thức đối với đời sống và công việc của giới cầm bút, để rồi thúc đẩy văn chương tiến tới làm tròn những sứ mệnh của nó.

Bởi lẽ, xưa nay, trong lòng xã hội Việt Nam, văn chương nghệ thuật luôn luôn đóng một vai trò trọng yếu, sự quan tâm của nhà cầm quyền cũng như các giới dân chúng đối với nó là rất lớn lao, và sự thực nó đã trở thành một thứ hàn thử biểu của đời sống, cho nên, việc một người trong giới trí thức đương thời suy nghĩ về nó, là một lẽ tự nhiên, hơn nữa, một điều cần thiết, nhất là từ đầu những năm 40 trở đi, khi xã hội có nhiều biến chuyển, và sự phát triển của sáng tạo văn nghệ không còn được phép kéo dài tình trạng tự phát, mà phải là một cố gắng tự ý thức đến mức tối đa.

Không phải ngẫu nhiên gần như đồng thời với Thanh Nghị, một tạp chí nghiên cứu và đánh giá văn chương nghệ thuật khác (có hơi nghiêng về việc khảo cứu cái cổ) cũng đã ra đời, đó là tờ Tri Tân.

Với các bài viết sắc sảo của Đinh Gia Trinh, Lê Huy Vân trên Thanh Nghị, của Hoa Bằng, Lê Thanh, Kiều Thanh Quế... trên Tri Tân, như vậy là công việc của Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Ngọc... hồi nào được tiếp tục và đẩy lên một bước mới.



II

Tuy có khác nhau ít nhiều trong cách gọi tên và đánh giá song tất cả những ai từng nghiên cứu văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đều sớm nhận ra và không tránh khỏi cảm giác kinh ngạc trước sự đổi thay vùn vụt của nó.

Những năm 20 về trước, văn chương ta còn đang ngơ ngẩn với những câu văn biền ngẫu, những quan niệm thể loại cổ lỗ, những lối thuyết minh đạo đức thô thiển, vậy mà chỉ mười năm sau, nền văn chương này đã làm một cuộc cách mạng trong tư duy sáng tạo, đã dàn ra đủ “các mặt hàng” và tạo ra sự định hình bước đầu của các thể tài thể loại, chẳng khác gì ở nhiều nước phương Tây, tóm lại đã có khuôn mặt của một nền văn chương hiện đại.

Trước mắt một người như Đinh Gia Trinh, cái thực tế văn chương mấy năm từ đầu 40 bày ra như vậy là một quang cảnh văn hoá, có sắc thái đậm nét, có định hướng rõ ràng. Điều có phần chắc nữa là nó khá tương ứng với cách nhìn cách xem xét văn chương hình thành từ cái vốn liếng tri thức tổng quát của lớp người như ông, thành thử trong khi bàn luận , ông có thể có một sự lui tới tự nhiên, thoải mái.

Trong phạm vi một tờ báo, công việc mà Đinh Gia Trinh đảm nhiệm lúc ấy khá đa dạng, và ông đã viết đủ loại: bài phê bình nghiên cứu về từng tác phẩm có; bài đánh giá tổng quát về tình hình văn chương từng năm có; bên cạnh những bài có tính chất tiểu luận trình bày một vấn đề học thuật mà tác giả cho là quan trọng, lại có những đoạn danh văn ngoại quốc, thực chất là những suy nghĩ của một tác giả nước ngoài mà Đinh Gia Trinh thấy là hợp với ý tưởng của mình, tự tay ông dịch, và kèm thêm vào đó vài đoạn bình luận ngắn.

Ấy là không kể những bài gọi là tuỳ hứng hoặc theo ngôn ngữ chúng ta bây giờ, có thể gọi là phiếm luận, tạp luận.

Bấy nhiêu vấn đế, bấy nhiêu bài viết, cách viết, tưởng là tản mạn, nhưng rút cục, quy tụ ở một điểm, mà tác giả thấy tâm đắc hơn cả.

Dù là mãi đến đầu 1945, Đinh Gia Trinh mới đưa ra một thiên tiểu luận có đường nét của một bài tổng kết Địa vị văn hoá Âu Tây trong văn hóa Việt Nam, song tinh thần kiểm điểm soát xét lại lịch sử theo hướng này cũng đã chi phối ông nhiều năm trước.

Đọc Mơ hoa của Đoàn Phú Tứ, ông bàn về ảnh hưởng của kịch Pháp với kịch Việt cũng như nhân đọc tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, ông nêu lên những biến chuyển mới trong tâm lý nó bộc lộ ra qua việc vận dụng một thể loại. Riêng thơ cũng được tác giả dể tâm theo dõi khá kỹ.

Nhân sự tổng kết của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam 1932-1941 ông chỉ ra tính tất yếu của một sự thay đổi mà lúc đầu người ta thường e ngại. Ít lâu sau, khi đọc Xuân Thu Nhã tập, ông lại sẽ cắt nghĩa về những hạn chế của sự thay đổi này bằng vào những gốc rễ sâu xa của nó.

Tóm lại, dù viết về bất kỳ chuyện cụ thể nào, ông cũng đứng vững trên một nhận xét khái quát, rằng nền văn chương từ đầu thế kỷ, cho đến những năm 40, là một nền văn chương làm theo mẫu hình phương Tây, và sự gặp gỡ Tây phương là một hiện tượng lớn và quan trọng bậc nhất, trong lịch sử đời sống tinh thần của nước Việt Nam hiện đại.

Kể ra trước Đinh Gia Trinh ít lâu, nhiều nhà nghiên cứu cũng đã nói tới chuyện ảnh hưởng phương Tây (trong thiên tiểu luận nổi tiếng Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh đã viết: “Sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ”) song, trong thực tế, trong số những người theo đuổi ý tưởng này đến cùng, và triển khai nó rộng rãi trên phương diện lý lẽ, bàn được cả cái hay cái dở cụ thể của nó, thì tiếp sau Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh.... phải kể tới Đinh Gia Trinh.

Rải rác qua các bài viết, người ta biết rằng nhà trí thức này không chỉ thông thạo văn chương Pháp mà còn biết đến Goethe của Đức, Shakespeare của Anh... Và trong văn chương Pháp, không chỉ yêu Lamartine, Baudelaire, Balzac, Hugo... ông còn ngược đến tận Pascal, trong khi vẫn là bạn đọc thường xuyên của những M. Proust, A. Gide v.v...

Hơn thế nữa, đây là một trong số ít ỏi trí thức đương thời biết nói về âm nhạc châu Âu như nói về những vui buồn của riêng mình, và yêu Bethoven với một tình yêu thường trực. Bằng ấy điều kiện gia dĩ đã là một thứ đảm bảo chắc chắn cho vấn đề mà ông lựa chọn và trở thành chủ đề xuyên suốt trong các bài viết.



III

Trong số những lý do khiến cho vấn đề Đông Tây sớm nổi lên và trở thành một ám ảnh dai dẳng chi phối tâm trí nhiều nhà trí thức đương thời, có một lý do cơ bản sau đây: Đông phương là cái dĩ vãng của xứ sở, là nền tảng của quá khứ thiêng liêng, còn Tây phương là cái hương xa hoa lạ bỡ ngỡ, là cái đã đến cùng kẻ thù xâm lược. Theo một góc độ nào đó mà xét có thể bảo làm văn hoá theo kiểu Tây phương là từ bỏ truyền thống cha ông, là xa lìa mảnh đất đã nuôi dưỡng mình. Với một trí thức tự trọng, đấy là cả một việc tế nhị và một người có lương tâm không khỏi áy náy - những áy náy cần thiết để giúp người ta lui tới trong cách nhìn và tránh đi những lố lăng tuyệt đối hoá mỗi khi thẩm định và đánh giá.

Tuy nhiên, đấy là chỉ xét vấn đề từ những mặc cảm cố hữu.

Trong lịch sử nước nhà, câu chuyện Đông - Tây vốn đặt ra từ thời Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, qua Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đến Đông kinh nghĩa thục rồi Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Tản Đà.

Khi Đinh Gia Trinh và các đồng nghiệp cầm bút, vấn đề trên đã được lịch sử giải quyết rồi, những đề xuất của ông không thể nói là có ý nghĩa xác định phương hướng tiến tới cho lịch sử. Ngược lại, công việc của các ông lúc này là lý giải một hướng vận động đã được lịch sử chấp nhận, và mang lại cho nó một vẻ hợp lý, do đó, một tính cách thiết yếu.

Việc này đã được ngòi bút Đinh Gia Trinh thực hiện một cách khéo léo, có sức thuyết phục.

Thứ nhất, ông bình tĩnh trấn an mọi người. Ông bảo: Ta vẫn là ta. Chẳng qua ta chỉ mượn ở phương Tây những men giống, sau đó, tự ta sẽ phát triển “trên cái căn bản cố hữu lưu truyền qua các thời đại”.

Một dịp khác, ông nhấn mạnh ngày hôm nay chỉ là sự nối tiếp của một dĩ vãng. Cái dĩ vãng ấy không bao giờ tiêu biến như ta sợ. Trong điều kiện mới, nó sẽ được “thêm thắt và làm cho hoàn thiện hơn”.

Thứ hai, ông có biện hộ nhưng là một sự biện hộ khá thuyết phục cho hiện tượng đã xảy ra. Ai kia bảo học theo nước ngoài là đánh mất mình, còn ông, thì ông cãi lại :

“Theo người ta rất có thể chịu một ảnh hưởng ngoại quốc mà vẫn rất thành thực”.

“Hồn của Việt Nam có thể ở những câu ca dao hát trên bờ ruộng nhưng sao lại không có thể ở cả cái bồng bột của một tấm lòng thanh niên trước cuộc đời?”.

Có lúc ông nói đến tình, có lúc ông nói đến lý.

Và để kết luận, ông mượn một hình ảnh “áo của tổ tiên ta để lại chật quá, ta phải thay áo mới, đó có phải đâu là vong bản, là phụ bạc? Một vài thiên tài trong thế kỷ sẽ chứng rằng cái áo mới ấy rất dễ coi và thích hợp với những nhu cầu mới của thời đại mới.”

Cứ thế, không cần cao giọng chút nào, người trí thức trẻ đã làm được một việc cần thiết, là làm cho nhiều người tin hơn vào một sự đổi thay tuy trái với thói quen, nhưng suy cho cùng, lại là hợp lý.

Khi nêu ra những nhận xét trên, không phải Đinh Gia Trinh chỉ xuất phát từ sự xét đoán trong lý trí, mà còn là những thể nghiệm cá nhân.

Nên nhớ rằng cho đến những năm 40 của thế kỷ trước, giới trí thức nước ta vốn được hình thành theo một cách thức rất lạ.

Một mặt, họ tiếp nhận văn hoá phương Tây kỹ lưỡng, cặn kẽ.

Mặt khác trừ một số quá đặc biệt còn phần lớn họ vẫn có một cách thức riêng để tiếp thu nền văn hoá cổ truyền.

Công thức phổ biến đại khái là: Tiếng Pháp, văn hoá Pháp đến từ nhà trường. Còn về với gia đình là văn hoá Hán Việt.

Thành thử, trong khi không tiếp tục sống theo tinh thần văn hoá cổ truyền, họ vẫn hiểu nền văn hoá đó đến chân tơ kẽ tóc, và nhân tiếp nhận được những công cụ hiện đại của khoa học xã hội phương Tây, họ lại lấy ngay nền văn hoá cổ truyền kia làm đối tượng để thể nghiệm, tức là bắt tay khảo sát đánh giá lại những di sản mà họ nhuần thấm và bắt đầu thấy tiếc, vì nó đang mất.

Những công trình nghiên cứu của tiến sĩ Nguyễn Văn Huyên (viết bằng tiếng Pháp, in ra từ mấy chục năm trước, và gần đây mới được dịch ra tiếng Việt) là một ví dụ.

Về phần mình, Đinh Gia Trinh cũng chỉ làm việc này theo lối tay trái, nhân do làm báo mà phát biểu về nền văn hoá cổ truyền. Mặc dù vậy, phải nhận một bài viết như Tính cách văn chương Việt Nam trước thời kỳ Âu hoá có những nét phác hoạ khá chính xác, xuất phát từ sự am hiểu sâu sắc những nền tảng văn hoá cũ.

Tác giả không làm công việc kiểm điểm hoặc đánh giá đầy đủ các sáng tác văn chương cổ điển (đó là công việc của những Dương Quảng Hàm, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Ngọc... đã làm).

Chủ yếu, ông muốn tìm ra cơ chế hoạt động của nền văn hoá cũ, cái chủ thể sáng tác của nó, cùng là môi trường mà trong đó, tác phẩm được phổ biến.

Cái khó nhất của một bài viết tổng quát về một nền văn hoá như thế này là bắt lấy cái thần của đối tượng. Chỉ cần để công một chút người ta có thể kể ra hàng loạt chi tiết độc đáo của một nền văn hoá, nhưng vẫn có thể khái quát về nền văn hoá đó sai, nếu thiếu đi một sự linh cảm nó được hun đúc từ cả kinh nghiệm từng trải lẫn tinh hoa của hàng vạn quyển sách.

Là bài viết đầu tay của Đinh Gia Trinh trên Thanh Nghị, song Tính cách văn chương Việt Nam trước thời kỳ Âu hoá sở dĩ có thể đứng vững và chắc chắn tạo nên một uy tín, vì có được cái linh cảm chính xác đó hướng dẫn.



IV

Sau khi thuyết minh cho lẽ tất yếu của việc tiếp nhận văn hoá phương Tây vào nền văn hoá dân tộc, một lớp trí thức trẻ lớn lên từ sự tiếp nhận ấy ắt hiểu rằng muốn tự trọng, phải lấy mình ra bảo đảm cho cái phương hướng đã được xác lập. Phải tự chứng tỏ cho được cái ưu thế của cái mới cả về phương diện đào tạo con người, lẫn tính hiệu quả trong công việc. Phải tiến tới cái mực thước, công bình trong xét đoán.

Có thể nhiều người cũng chia sẻ với Đinh Gia Trinh một nhận xét bao quát rằng “phần văn hoá đặc sắc nhất mà Tây phương mang lại cho ta là óc khoa học”, song có được óc khoa học thực thụ, nghĩa là “tạo cho mình một nếp tư duy trong thực tế, yêu sáng láng và thật sự, có óc phê bình” thì không phải dễ!

Trong việc tiếp nhận những điều mới lạ, thiếu gì kẻ a dua theo thời mà cũng thiếu gì người nông nổi, mới học được ít, đã tưởng mình biết nhiều rồi khoa chân múa tay trộ đời.

Bấy giờ những người có hiểu biết chắc chắn phải làm công việc minh định lại mọi điều, cốt sao cho người ta không vì những sự áp dụng lầm lạc, mà hiểu sai một cách làm, và bỏ đi một phương pháp, cái khó là ở chỗ ấy.

Vào khoảng thời gian 1940-1941, khi Đinh Gia Trinh bắt đầu viết nhiều, đời sống phê bình văn học cũng có những bước đột khởi về số lượng và chất lượng.

Hoài Thanh và Hoài Chân cho in Thi nhân Việt Nam 1932-41 gọi lên rất nhiều tiếng vang.

Vũ Ngọc Phan cho công bố một bộ Nhà văn Việt Nam hiện đại khá đồ sộ.

Trong khi ấy, sau Việt Nam văn hoá sử cương, Đào Duy Anh có Khảo luận về truyện Thuý Kiều, còn Nguyễn Bách Khoa lại tới tấp cho ra đời Nguyễn Du và Truyện Kiều, Thân thế và sự nghiệp Nguyễn Công Trứ...

Sự gia tăng của tỷ trọng sách nghiên cứu như vậy một dấu hiệu của sự tiến hoá chung về đường tinh thần - Đinh Gia Trinh sẵn sàng nhắc đi nhắc lại như vậy.

Khi đặt cho một bài của mình cái tên Hoài vọng của lý trí, ông đã tự chứng tỏ cái khuynh hướng mà bản thân đang theo đuổi.

Song không phải những người cùng hay nói tới lý trí có chung một cách hiểu về nó. Bàn về giáo dục, ông Thái Phỉ có phần quá nghiêm khắc khi nhìn lớp thanh niên học sinh đương thời. Ông P.N. Khuê lại thường đề cao một chiều óc khoa học, tới mức xổ toẹt lý do tồn tại văn chương nghệ thuật, bảo nó là sa đoạ, có hại.

Riêng trường hợp của Nguyễn Bách Khoa (Trương Tửu) mới lại càng độc đáo.

Nghiên cứu về Truyện Kiều, có lúc ông ngả hẳn sang công việc của một y sĩ, kết luận rằng nhân vật của Nguyễn Du mắc bệnh uỷ hoàng, kèm theo những nhận xét triệu chứng học đọc lên nhiều người bình thường hẳn phải nhăn mặt.

Mà lối viết lối nghĩ dung tục đó lại được Nguyễn Bách Khoa khoác cho cái áo sang trọng, nào là duy vật, nào là cách tân, và cố ý khoe rằng chỉ có học thuyết Freud hiện đại mới cho phép người ta có những khám phá như vậy.

Những kết luận vội vã của Nguyễn Bách Khoa, theo Đinh Gia Trinh là “lạc chốn lạc nơi” “vô duyên vô lý một cách lạ” và trong nhiều trường hợp nhà phê bình tự nhận là mới mẻ ấy đã “bênh vực cho những tư tưởng cũ rích”. Sự phê phán của Đinh Gia Trinh trong trường hợp này góp phần vào việc mang lại cho phương pháp nghiên cứu khoa học vừa được du nhập từ phương Tây một sự dè chừng: nếu không có thực học, tức học đến nơi đến chốn, người ta rất dễ đi vào gò ép giả tạo, trở thành tù binh của những ý kiến giật gân song lại xa lạ với lương tri thông thường va trở nên lố lăng, bịp bợm lúc nào không biết.

Đi tới cùng trên con đường duy lý đã chọn, văn hoá phương Tây - phần tốt đẹp của nó - không chỉ dừng lại ở lối tư duy máy móc, mà đã tiến sang cái phần siêu lý và điều đơn giản là nó thường xuyên tự quay lại nhìn mình và cảm thấy mình là không đủ. Từ các thế kỷ trước đã có người nghĩ thế và đến những năm XX của thế kỷ này điều ấy càng được khẳng định.

Bằng sự nhạy cảm riêng, bằng vốn kiến thức khá uyên bác, Đinh Gia Trinh đã tiếp nhận cái ý tưởng về triển vọng hạn chế của văn hoá tư tưởng phương Tây một cách hoàn toàn thoải mái. Vẫn biết rằng triết lý Đông phương không ít nét tối tăm huyền bí, chỉ có những người có căn bản Tây học vững chắc mới mong giải mã được nó, song ông cũng cho là có những phương diện, Đông phương đã đi xa hơn Tây phương.

Nhân bàn về y lý ông chỉ dự doán một cách dè đặt “biết đâu Đông phương chẳng có thể chỉ lối đưa đường cho Tây phương ở một vài địa hạt, ở những chỗ mà y học Tây phương bất lực hoặc còn chưa hoàn thiện”.

Nhưng đứng đằng sau y lý bao giờ cũng có một triết lý, cho nên đằng sau cái nhận xét cụ thể kia của Đinh Gia Trinh, người ra dễ dàng nhận ra một khái quát, mà ông chỉ mới gợi ý.



V

So với một số nhà phê bình đương thời, cách đóng góp của ngòi bút Đinh Gia Trinh với đời sống văn chương 1940-45 có một chỗ khác rõ rệt: ông không trực tiếp lăn lộn kiếm sống trong giới cầm bút. Hoạt động phê bình của Đinh Gia Trinh do đó chưa đạt đến mức bao quát tỉ mỉ như Vũ Ngọc Phan, cũng như không có được sắc thái tinh tế như lối thẩm văn của Hoài Thanh.

Song để bù lại, cái tư thế đứng ngoài nhìn vào lại khiến cho ngòi bút Đinh Gia Trinh được cái hồn nhiên tư nhiên mà không sa đà vào những thành kiến của người trong cuộc.

Nói về Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ, ông bảo thi tứ hơi nhàm.

Nhận xét chung về cuốn tổng kết Thơ mới của Hoài Thanh và Hoài Chân, ông nói thẳng cái điều mà ít người dám nói, đó là ở Thi nhân Việt Nam có những nhà thơ bất tài, “tác giả một vài bài thơ tạm đọc xuôi”. Thế mà “cũng có tên, có tiểu sử có cả ảnh nữa trong tập sách”.

Một sự nhạy cảm tương tự còn thấy rất rõ qua bài Đinh Gia Trinh viết về Truyện Kiều.

Sau khi phê phán phương pháp làm việc cũng như các kiến giải dung tục của Nguyễn Bách Khoa, bản thân Đinh Gia Trinh trực tiếp đứng ra trình bày một vài điểm liên quan đến kiệt tác của Nguyễn Du.

Chẳng hạn, chung quanh mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm. Phản đối lối đọc Kiều như đọc tâm sự, song Đinh Gia Trinh vẫn cho rằng tác phẩm này là nơi thể hiện cái bản ngã của tác giả một cách đầy đủ nhất, và người ta nên tìm tới cả những gì mà tác phẩm bộc lộ, ngoài sự cố ý của tác giả.

Lại như khi đi vào phân tích từng nhân vật cụ thể, nhiều chỗ nhà phê bình này vẫn có những phát hiện nho nhỏ đi ngược với thói thường.

Nhân câu nói của Kim Trọng Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều, trong khi Nguyễn Bách Khoa cho rằng đấy là một lời đầy chí tiến thủ và nhiều người khác muốn tìm ở đó cả một triết lý, thì Đinh Gia Trinh đưa nó về cái vị trí thực của ông. Ông chỉ xem đó là một câu nói bộc lộ quyết tâm trong tình yêu “đã yêu nhau thì san phẳng trở lực” thế thôi, ngoài ra không có triết lý sâu xa nào ở đây hết!

Hoặc khi bàn chung về nhân vật Thuý Kiều trong khi Đào Duy Anh cho rằng “Kiều thông minh, xử sự bao giờ cũng sáng suốt và hợp lệ”, thậm chí gần đây trong một cuốn Giáo trình đại học in những năm 70-80 có nguời còn mệnh danh Kiều là một nhân vật tuyệt vời ý thức, thì Đinh Gia Trinh có lẽ là gần sự thực hơn khi bảo rằng chỉ qua việc bán mình chuộc cha thôi, đã thấy lý trí của Kiều không làm việc, và trong nhiều trường hợp nàng đã xử sự mù quáng, chứ chẳng có chút sáng suốt nào hết!

Bấy nhiêu ví dụ gộp cả lại, cho phép người ta giả thiết giá kể đi sâu vào phân tích tác phẩm, Đinh Gia Trinh cũng sẽ là nhà phê bình sắc sảo.

Nhưng lịch sử không muốn thế.

Sau khi đã có Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh, lịch sử văn học trước 1945, muốn có thêm những nhà phê bình tồn tại theo kiểu khác.

Không phải ngẫu nhiên mà một trong những bài viết quan trọng của Đinh Gia Trinh, bài Nay và mai, lại có cái phụ đề “ý kiến và những cảm hứng về đời sống tinh thần Việt Nam”.

Quả thật là đọc Đinh Gia Trinh, người ta không chỉ biết thêm về tác phẩm văn chương.

Rằng hồi bấy giờ, sách vở ra rất luộm thuộm.

Rằng trong khi văn chương có vẻ phát triển rầm rộ, thì tác phẩm có chất lượng rất ít, nhân danh thứ văn chương kiều diễm nhiều người viết thường kể lể dông dài, hoặc sau một hồi tán nhăng tán cuội lại đang lên mặt đạo đức, thế mới là chuyện kỳ lạ!

Mà với Đinh Gia Trinh người ta có dịp ngó sang cái «cơ chế sản xuất chữ nghĩa» của con người đương thời:

“Đã có một thủa gần đây, cảnh tượng xã hội ta thực như thế này: những người có bằng cấp ung dung bệ vệ trong địa vị của họ ở ngoài vòng “cương toả của sách vở”, còn ở các thư viện thì các cậu học trò học thi cho đỡ tốn, và ở các căn nhà hỗn độn, một số văn nghệ sĩ nghèo nàn gò ép trí não rỗng tuếch của họ để cấu tạo một cái gì in được”.

Khi viết những dòng đó trong bài Học lấy và học ở nhà trường, chắc Đinh Gia Trinh không ngờ là đã ngả sang một thứ xã hội học mà một đồng nghiệp của ông là Thanh Tuyền bắt đầu giới thiệu trên Thanh Nghị mấy năm 43-44. Nhận xét của ông không chỉ đúng với một thực trạng đương thời mà còn báo trước một lối làm việc sẽ còn kéo dài trong đời sống nhiều năm về sau, nó khiến cho văn hoá ở ta thường phát triển theo bề rộng mà kém về bề sâu, có số lượng nhưng không vươn lên được về chất lượng.



VI

Nghệ thuật phê bình là tên gọi một bài viết Đinh Gia Trinh cho in vào giữa 1942.

Sau khi gọi ra những yêu cầu chính mà một người làm nghề này phải có như năng lực hiểu được người khác - Đinh Gia Trinh gọi là năng lực cảm hội - rồi óc phân tích và tổng hợp, rồi kỹ thuật nghề nghiệp, tác giả Hoài vọng của lý trí đặc biệt nhấn mạnh tới cá nhân con người nhà phê bình.

Ông nhắc lại ý kiến của một học giả phương Tây bảo phê bình là một loại văn chủ quan, và trái với cái thành kiến thông thường cho rằng viết phê bình là “cân đong đo đếm” người khác, phải thấy trước tiên viết phê bình là dãi bày mình ra trước công chúng.

Rồi Đinh Gia Trinh kết luận:

“Tâm hồn nhà phê bình có giá trị ngần nào thì nghệ thuật của nhà phê bình có giá trị ngần ấy”.

Người ta có thể tin ở độ chín chắn và mức độ thành thật của nhận xét này khi nhớ lại các bài nghiên cứu vừa nói ở trên.

Sở dĩ ấn tượng tốt đẹp về Đinh Gia Trinh còn lại sau các bài viết ấy, lý do là vì ở đó người ta luôn bắt gặp cả lòng ham yêu, cái khát khao muốn đi tới sự thực và chân lý, cái khoáng đạt trong khả năng hiểu về việc và người, chính nó mới là nhân tố chi phối mọi phương hướng suy xét và sự vận dụng kiến thức đã khá vững vàng nơi tác giả.

Song còn một khu vực nữa, mà con người nghệ sĩ ở Đinh Gia Trinh có dịp bộc lộ trực tiếp hơn, đầy đủ hơn, đấy là các bài tuỳ bút.

Nếu như khi viết tiểu luận, Đinh Gia Trinh đi ra với thực tại khách quan, với mọi người thì trong các bài tuỳ bút, ông phải đối diện với chính mình. Mình trong một chuyến nghỉ hè, mình trong những lần trở lại quê hương; hoặc đơn giản hơn, mình trong một buổi chiều vơ vẩn, mơ hồ lắng nghe thấy rất nhiều điều từ trời đất thiên nhiên mà lại không sao nói lên mọi thứ cho thật rõ ràng.

Hình như chính con người duy lý nơi tác giả cũng sớm cảm thấy rằng những khi đơn độc, tâm hồn mình hiện ra quá nhạy cảm và yếu đuối.

Nhưng rồi ông tự biện hộ: không có lý do gì buộc người ta phải giấu diếm nỗi buồn cũng những xúc động tưởng như vặt vãnh ở mình cả.

Ngược lại sự bộc lộ đó là tự nhiên, và nó làm giàu thêm cho tâm hồn con người.

Sự thực là qua các tuỳ bút, bản thân Đinh Gia Trinh hiện ra với bộ mặt tinh thần khá phong phú. Ông yêu đời. Ông thèm đi thèm biết. Ông lại luôn luôn e ngại chỉ sợ mình lầm lạc thô thiển và lo rằng những cử động vô ý của mình làm hỏng mất cái đẹp ở chung quanh Lòng tôi bồng bột quá...Tôi rụt rè, tôi yếu đuối... Con nguời tôi bỗng trở nên bối rối...

Không chỉ trong bài Kỷ niệm Phan Thiết, mà trong nhiều bài viết khác, người ta luôn luôn cảm nghe tiếng kêu lên se sẽ của tác giả như vậy. Những đối tượng khiến lòng ông bồng bột xúc động lại nhiều vô kể: quá khứ tuổi thơ; những kỷ niệm của quê hương của bạn bè; cả nhữn mô-típ quen thuộc trong văn hoá cổ truyền như câu chuyện Từ Thức nhập Thiên Thai cũng đi về sống động trong lòng ông, nó khiến cho những lúc trở về với cái thế giới riêng của mình, ông như trở thành một con người khác.

Hoá ra, không chỉ cần nỗ lực suy nghĩ và vượt lên trên hoàn cảnh, mà có lúc, con người ta cần cả một chút buông thả thư giãn tự nhiên.

Ấy là lúc con người trong ta trở về với cái bản chất thi sĩ sẵn có mà hàng ngày, giữa cuộc sống quá bộn bề, ta thường quên lãng.

Như trong phần tìm hiểu các bài tiểu luận của Đinh Gia Trinh chúng ta đã thấy, một trong những chủ đề trở đi trở lại trong Đinh Gia Trinh là mối quan hệ Đông phương và Tây phương.

Thì đến cái phần tuỳ bút, người ta thấy vấn đề ấy vẫn trở lại trong tâm khảm tác giả, thậm chí, nó bộc lộ qua cả cách cảm cách nghĩ của chính ông nữa.

Với sắc thái u trầm kín đáo, những run rẩy, những phút giây yếu đuối những tình tự tế nhị thường trực nơi tác giả là gì khác, nếu như không phải là cái chất phương Đông tiềm tàng sẵn trong con người ông?

Thế còn phương Tây?

Cái đó cũng rõ rệt không kém.

Nó ở cái khao khát của ngòi bút, muốn ghi lấy tất cả, bộc lộ tất cả. Nó ở cái cảm hứng tự do mà một khi đã nếm trải, con người ta không bao giờ từ bỏ nổi. Nó lại cũng ở cái tấm lòng tha thiết muốn soi dọi thẳng vào những run rẩy những lờ mờ tăm tối còn chạng vạng trong lòng mình, để vươn tới cái sáng rõ của ý tưởng, nó cũng là cái lòng ham yêu mà tác giả cho là người mình thiếu nhất và cần bồi bổ sớm nhất.

Nói cho công bằng, ở một con người, giữa nhu cầu bộc lộ tâm hồn và khẩ năng diễn tả tâm hồn đó trên mặt giấy, hai cái đó thường khi có sự chênh lệch, và Đinh Gia Trinh cũng không phải là một ngoại lệ. Các tuỳ bút của ông đôi khi hơi rối, mà tác giả có vẻ mải đắm chìm trong những cảm giác đang tràn ngập trong lòng mà chưa có một độ lùi cần thiết để trình bày cho sáng sủa. Cũng tức là ông chưa tính được chính xác hiệu quả bài viết trong lòng người đọc. Tuy nhiên, khi nào mà có được sự chín đầy trong cảm xúc, vừa huy động được vốn kiến thức đã nhuần nhị, lại vừa thanh lọc được những kinh nghiệm sống, thì bài viết của Đinh Gia Trinh có một hiệu quả văn chương khá sâu đậm.

Đó là, chẳng hạn, bài Đông phương và Tây phương.

Do chỗ, một vấn đề rất duy lý và rất khô khan như vậy, trở thành vấn đề riêng của con người tác giả, nên nó được ông trình bày gọn gàng, hàm súc mà vẫn thanh thoát. Đã có lúc tôi nẩy ra cái ý nghĩ bài viết trên "có được cái vẻ đẹp lung linh và cái sức lôi cuốn mà thỉnh thoảng người ta mới bắt gặp, trong những tuỳ bút hay nhất của Xuân Diệu".



VII

Cho đến hiện nay, sinh hoạt văn học trước 1945 ở ta mới được nghiên cứu qua loa và còn mang nặng rất nhiều thành kiến. Đọc các giáo trình văn học sử dạy ở các trường đại học, đại khái người ta mới chỉ thấy đời sống văn học được chia ra thành ba khuynh hướng, văn học hiện thực, văn học lãng mạn và văn học cách mạng. Nhiều vấn đề quan trọng như tư duy văn học, như sự hình thành và phát triển các thể loại, chưa được xem xét, hoặc nếu có thì cũng còn rất hời hợt.

Ví dụ xung quanh vấn đề phê bình văn học, đại khái chỉ thấy những người sau đây được nhắc tới ít dòng: Hải Triều, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, tiếp đó Trương Tửu, Trương Chính được dẫn chứng trong một đôi lần ít ỏi.

Trên cái nền chung như thế, một cái tên như Đinh Gia Trinh hầu như không gợi một ấn tượng gì hết, mà chỉ ngẫu nhiên được nêu ra khi các nhà văn học sử đề cập tới trường hợp hai tờ Tri Tân, Thanh Nghị.

Oái oăm thay, một sự lãng quên như thế - quên cả giới phê bình, chứ không riêng gì Đinh Gia Trinh - lại chính là do các nhà phê bình cố ý hoặc ngẫu nhiên thực hiện. Ở đây, người ta cảm thấy như là có một sự xấu hổ không muốn trình diện của cả hai phía, cả người trong cuộc, cũng như người ngoài cuộc.

Một ý tưởng thường trở đi trở lại trong các bài điểm tình hình văn chương mà Đinh Gia Trinh đã viết trên Thanh Nghị là vai trò đáng kể của lý trí, của tư duy nghiên cứu đối với đời sống văn chương nói chung.

Nhưng ông nói là để nói cho ai vậy, còn bản thân ông lại hết sức rụt rè không dám khẳng định phần đóng góp của bản thân và bao nhiêu điều viết ra bằng tâm huyết, bằng học vấn và tài năng trong những năm tuổi trẻ đẹp nhất của đời mình (trước tuổi 30).

Về sau, ông không bao giờ chủ động nhắc tới và có vẻ sẵn sàng để nó vùi sâu vào quên lãng.

Mà ông đã muốn thế, thì các đồng nghiệp của ông, trẻ hơn ông, đi sau ông, cũng sẵn sàng để cho ông như thế.

Lâu nay có một thành kiến sai lầm là văn chương tiền chiến (phần công khai) sau khi lên đến đỉnh cao hồi 36-39, thì lụi tàn dần. Cái điều phi thực tế ấy không được một số nhà nghiên cứu ở Hà Nội chấp nhận. Các ông bỏ công sưu tầm hàng ngàn trang văn xuôi của những Nam Cao, Nguyên Hồng, Bùi Hiển, Tô Hoài, Tam Kính, Phi Vân... và viết những công trình tổng kết rất chững chạc để chứng minh rằng văn xuôi sau 1940 là một bước phát triển mới của văn chương tiền chiến.

Thế nhưng, một đặc điểm quan trọng của đời sống văn học 40-45, là sự đóng góp rõ rệt của các nhà nghiên cứu, thì chưa thấy một nhà văn học sử nào đoái hoài tới. Tác phẩm của Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan rành rành ra đấy mà mãi tới sau 1986 mới được in lại, nói chi đến các bài viết của Nguyễn Văn Tố, Hoa Bằng, Lê Huy Vân và nhiều người khác còn đang nằm rải rác giữa những tập báo cũ nát ở các thư viện.

Trong hoàn cảnh ấy, các tiểu luận và tuỳ bút của Đinh Gia Trinh, nếu quả thật có rơi vào tình trạng lãng quên, thì cũng không có gì khó hiểu.

May thay cũng có người không quên hẳn như vậy!

Trong một tập sách giáo khoa đồ sộ và nghiêm túc (trên 1000 trang) mang tên Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, một nhà nghiên cứu văn học ở Sài Gòn trước đây là Phạm Thế Ngũ đã làm việc khá khách quan và khoa học. Trên nền bức tranh chung của văn học Việt Nam 1932-1945, Phạm Thế Ngũ dành một phần quan trọng cho đời sống văn chương sau 1940.

Mà trong giai đoạn cụ thể này ông đặc biệt xem trọng nghiên cứu phê bình. Ông xếp nó thành một mục riêng, trong đó tác phẩm của những Ngô Tất Tố, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi, Lê Văn Hoè, Phan Khoang... được nói tới khá đầy đủ.

Hai tờ tạp chí Thanh Nghị Tri Tân được ông dành cho một vị trí quan trọng cũng vì lẽ đó.

Riêng với Đinh Gia Trinh, Phạm Thế Ngũ lại có biệt nhãn hơn người. Theo nhận xét của tác giả Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, đây là ngòi bút khả ái bậc nhất ở Thanh Nghị.

Phạm Thế Ngũ không chỉ trân trọng những kiến giải sâu sắc của Đinh Gia Trinh đối với đời sống văn chương, mà còn có ấn tượng tốt về toàn bộ con con người Đinh Gia Trinh toát ra qua các trang viết. “Nếu trong những bài khảo luận và phê bình, Đinh Gia Trinh đã chứng tỏ một khiếu phân tích sắc bén, một cái nhìn hơi nghiêm khắc nhưng công minh, nhiều nhận định đúng và hay”, thì theo Phạm Thế Ngũ, “những bài tuỳ bút chứng tỏ ông là một tâm hồn có nhiều nhiệt thành, ham mê cái đẹp, ưa thú suy tưởng và góp nhặt cảm giác. Người ta thấy ở ông ảnh hưởng của Tự lực văn đoàn, từ nàng mỹ thuật của Thế Lữ, người tri thức băn khoăn của Nhất Linh, đến đường lối hướng nội và duy cảm của Thạch Lam, Xuân Diệu“.

Đối với Đinh Gia Trinh, như vậy phải nói là nhà nghiên cứu đi sau có một cái nhìn tri âm tri kỷ.

Do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, chắc là tác giả Hoài vọng của lý trí không thể biết những nhận xét thiện ý đó về mình, chứ nếu biết, ông sẽ rất cảm động.

Bởi ở đây, Phạm Thế Ngũ đã đặt Đinh Gia Trinh vào cái mạch tìm tòi của hàng loạt trí thức đương thời, và làm cho ông đỡ lẻ loi trong văn chương cũng như trong thân phận làm người. Nghề nghiệp trí thức đòi hỏi mỗi ngòi bút phải dũng cảm, phải phiêu lưu vào những khu vực chưa ai biết, phải dám nêu lên những giả thiết vượt trên mọi thành kiến, phải biết rút ra những kết luận mà người chung quanh mới nghe phải giật mình.

Nhưng chính vì thế, họ thường cô độc và thèm được thông cảm.

Chúng tôi nghĩ rằng việc một nhà nghiên cứu đứng đắn ở Sài Gòn trước 1975 đặt Đinh Gia Trinh vào cái guồng mạch của những tìm tòi trí thức suốt thời tiền chiến như thế là một sự công nhận chính đáng. Và biết đâu, lần đầu tiên được tập hợp lại trong một cuốn sách, những trang viết của ông lại chẳng thúc đẩy cho niềm tin và sự suy nghĩ của những trí thức trẻ đang tận tuỵ với công việc của mình, như chính Đinh Gia Trinh đã tận tuỵ với những bài viết trên Thanh Nghị hơn năm chục năm về trước - chúng tôi rất muốn tin như thế.



1996





Lời bạt viết cho Hoài vọng và lý trí

tập phê bình văn học vả

tuỳ bút của Đinh Gia Trinh , nxb Văn học , 1996; nxb Hội nhà văn 2005

In lại trong Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học Việt Nam,

của Vương Trí Nhàn, nxb Đại học quốc gia Hà Nội 2006

Thứ Năm, 27 tháng 8, 2015

50 kiện hàng nghi nhập lậu qua đường hàng không

Một lượng lớn hàng hóa không có hóa đơn chứng từ được vận chuyển bằng đường hàng không từ sân bay Nội Bài vào TPHCM vừa bị lực lượng Cảnh sát phòng, chống tội phạm buôn lậu Bộ Công an bắt giữ.

Ngày 27/8 theo tin tuc hinh su trong ngay, Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm buôn lậu (C74) - Bộ Công an, phối hợp với Công an quận Tân Bình, TPHCM tiến hành kiểm tra 50 kiện hàng nghi là hàng lậu của một công ty dịch vụ, được vận chuyển bằng đường hàng không từ sân bay Nội Bài (Hà Nội) vào Tân Sơn Nhất (TPHCM).

Lô hàng nghi nhập lậu đang bị tạm giữ để điều tra.Ảnh gia dinh

Qua kiểm tra, lực lượng chức năng phát hiện lô hàng này gồm vải, áo quần, điện thoại di động … đều mang nhãn mác của các hãng thời trang nổi tiếng.

Tất cả các mặc hàng này đều có xuất xứ từ Trung Quốc nhưng chủ lô hàng không xuất trình được hóa đơn, chứng từ liên quan.

Hiện công an đang tạm giữ lô hàng để điều tra, xác minh.

Xin được tử hình vì đánh chết bà nội

Đang trong cơn ngáo đá, Huy bị bà la mắng và đuổi khỏi nhà. Tức giận, Huy dùng gậy đánh chết bà nội và khiến hai người em họ bị thương tật nặng. Nhận thấy tội lỗi, Huy đã xin mức án tử hình đối với mình.

Ngày 26/8 theo tin nong trong ngay, TAND TPHCM mở phiên tòa xét xử sơ thẩm lưu động tại quận 10 và tuyên phạt bị cáo Nguyễn Quốc Huy (SN 1986, quê Kiên Giang) án tử hình về tội “Giết người”.

Bị cáo trước vành móng ngựa

Theo bản cáo trạng, khoảng 7h ngày 23/4/2014, Nguyễn Quốc Huy đi bộ đến nhà bà Nguyễn Thị Tuyết (bà nội Huy) tại đường Hồ Thị Kỷ, phường 1, quận 10, TPHCM chơi.

Đến 10h cùng ngày, bà Tuyết la mắng và đuổi Huy ra khỏi nhà vì Huy thường xuyên sử dụng ma túy. Tức giận, Huy liền lấy khúc gỗ rồi lao đến đánh bà Tuyết nhiều cái đến khi bà gục ngã mới thôi. Lúc này, hai đứa em họ của Huy là Thành (SN 2007) và Ý (SN 2002) chạy đến can ngăn liền bị Huy đánh bất tỉnh.

Sau khi gây án, Huy lập tức bỏ trốn. Còn bà Tuyết, cháu Ý và Thành nhờ người nhà phát hiện sớm nên đưa đi bệnh viện cấp cứu.

Đến ngày 9/5/2014, do vết thương quá nặng nên bà Tuyết tử vong. Còn cháu Ý và Thành may mắn thoát chết nhưng để lại thương tật 60% và 70%.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận, do mình bị ngáo đá nên đã không làm chủ được bản thân, tưởng bà và em họ là ma quỷ nên mới dùng gậy đánh dẫn đến tử vong. Bên cạnh đó, bị cáo cũng xin HĐXX tuyên phạt cho mình mức án tử hình.

Tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy hành vi của bị cáo là hết sức nguy hiểm, côn đồ và xem thường pháp luật. Chỉ vì một chuyện nhỏ mà bị cáo đã nhẫn tâm đánh bà mình đến chết và khiến hai em họ bị thương tật nặng nề.

Vì vậy, HĐXX tuyên phạt mức án như trên đối với Huy.

Thứ Tư, 26 tháng 8, 2015

Đôi vợ chồng bán thiếu nữ 15 tuổi sang Trung Quốc làm gái mại dâm

Theo tin tuc moi nhat Biết người họ hàng có nhu cầu mua phụ nữ Việt Nam rồi đưa sang Trung Quốc làm gái mại dâm, vợ chồng Thương – Hiền (trú huyện Kim Sơn, Ninh Bình) đi tìm những bé gái bỏ học trốn gia đình đi lang thang rồi dụ dỗ bán sang Trung Quốc với giá 10 triệu đồng/người.

TAND tỉnh Ninh Bình vừa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án “mua bán trẻ em” đối với hai bị cáo Nguyễn Văn Thương (SN 1989) và Trần Thị Hiền (SN 1994) cùng trú xã Thượng Kiệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình.


Theo cáo trạng của VKSND tin từ 24h an ninh, vợ chồng Thương và Hiền có quan hệ họ hàng với Vũ Thị Tằm (SN 1974) đang sinh sống tại Trung Quốc. Biết Tằm có nhu cầu mua phụ nữ Việt đưa sang Trung Quốc làm gái mại dâm, Thương chủ động liên hệ rồi đi tìm những bé gái bỏ học, trốn gia đình đi lang thang dụ dỗ đưa lên Lào Cai bán kiếm số tiền 10 triệu đồng/người.

Đôi vợ chồng trẻ này sau đó lừa được cháu P.T.D.Q và V.T.T (chưa đủ 15 tuổi khi bị lừa bán) ở thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn. Ngày 27/3/2015, khi Q và T được đưa tới bến xe Niệm Nghĩa (Hải Phòng), biết mình bị lừa bán, hai cháu Q và T lấy cớ đi vệ sinh rồi bỏ trốn về quê cùng gia đình đến công an huyện trình báo. Sợ bị phát hiện hành vi buôn bán người của mình, vợ chồng Thương cũng chủ động đến công an quân Lê Chân (Hải Phòng) trình báo là có người thân thất lạc.

Nhận được tin báo, cơ quan CSĐT công an tỉnh Ninh Bình đã mở rộng điều tra và bắt giữ vợ chồng Thương – Hiền sau đó. Trước tòa, Thương – Hiền khai nhận toàn bộ hành vi buôn bán người của mình. TAND tỉnh Ninh Bình đã tuyên phạt Nguyễn Văn Thương 11 năm tù, Trần Thị Hiền 12 năm tù về tội “mua bán trẻ em”.

Nguồn: tin tuc nhanh

Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015

Một bước khai phá của Vũ Bằng trong việc xử lý ngôn ngữ văn xuôi trước 1945

Trong bài viết mang tên Vũ Bằng “Thương nhớ mười hai”, nhà văn Tô Hoài từng kể lại một ít chuyện, liên quan đến mấy năm ông mới vào nghề, và bắt đầu viết đều cho các báo: “Những năm ấy, Nam Cao đương ở với tôi trên Nghĩa Đô. Chúng tôi mê mải đọc Vũ Bằng (…) Nếu nhà nghiên cứu văn học nào lưu tâm đến những truyện ngắn Vũ Bằng thời kỳ ấy với truyện ngắn của Nam Cao và những truyện ngắn Bụi ô tô, Một đêm sáng giăng suông của tôi trên các báo Hà Nội tân văn có thể dễ dàng nhận thấy hai ngòi bút này hơi hướng Vũ Bằng (Những gương mặt, H. 1994).





Ảnh hưởng trong văn học thường khi là chuyện tế nhị. Nữa đây lại là hơi hướng, giọng văn, hơi văn, cảch viết, những vấn đề thuộc về nghề nghiệp của người cầm bút.

Tuy nhiên cái sự thực mà một người khi đã về già nói ra luôn luôn đáng để chúng ta suy ngẫm.



Từ một quá khứ làm theo mẫu hình trung cổ, do các thế kỷ trước để lại, nền văn học Việt Nam bước sang thế kỷ XX bắt đầu được làm theo một mẫu hình mới để ngày một trở nên hiện đại.



Mà đấy là cả một sự biến chuyển toàn diện: Trong quan niệm văn chương. Trong chủ đề. Trong nhân vật. Và sau hết, người ta có thể quan sát thấy cả sự thay đổi trong các hình thức thể hiện nữa.



Thơ là một thể tài chủ đạo - xét theo tỷ trọng, nó từng chiếm tới tám chục phần trăm toàn bộ khối lượng văn học trung cổ. Đã có người gọi nước Việt Nam hồi ấy là một thi quốc. Trước cơn “mưa Âu gió Mỹ” cho đến những năm 20, thơ ta vẫn cố kết trong những hình thức vốn có từ thời phong kiến. Những tưởng mãi mãi nó vẫn vậy! Nhưng không! Đùng một cái, tới 1932 phong trào thơ mới đột khởi chiếm thế thượng phong trên thi đàn. Và người ta chứng kiến một sự lột xác tự nhiên mà khá mỹ mãn.



So với thơ, truyền thống văn xuôi cũ ở ta có non yếu hơn. Bởi vậy, giống như các cậu học trò chăm chỉ, các nhà viết văn xuôi của ta tính chuyện học theo các bậc thày văn xuôi phương Tây một cách khá sớm sủa, và cũng chỉ có thể là khá từ tốn.

Ban đầu là các hình thức nhỏ như truyện ngắn, bút ký sau mới tiến lên phóng sự, tiểu thuyết.

Đứng về ngôn ngữ thể tài, tức là cái cách sử dụng văn xuôi mà xét, người ta cũng bắt gặp một sự thay đổi rõ rệt.

Hãy nhìn vào sáng tác của những Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nhất Linh, Khái Hưng.

Một mặt phải nhận họ là những tay thợ khéo, văn xuôi của họ đã đạt tới một sự trau chuốt hoàn thiện khá cao.

Mặt khác xét theo chủng loại thì đó vẫn là thứ văn xuôi cổ điển, gần giống như văn xuôi phương Tây các thế kỷ XVIII, XIX.

Ấy vậy mà chỉ độ chục năm sau thôi, đọc Nguyễn Tuân, Nam Cao hoặc các bài bút ký của Xuân Diệu, người ta đã cảm nghe thấy một thứ văn xuôi hoàn toàn khác, chỉ những người có đọc và có thấm thía những A. France M.Proust, A. Gide… mới viết nổi, tóm lại là một thứ văn xuôi thuộc cái mạch hiện đại.

Một sự tiến triển như vậy sở dĩ có được, là nhờ tới sự đóng góp của nhiều người.

Và ở đây, chúng ta nên biết tới một quy luật thường vẫn chi phối các tìm tòi trong văn giới, ấy là có khi người mở đường lại rơi vào quên lãng, còn người tới sau lại gặt hái được vinh quang, do chỗ đã tổng kết được kinh nghiệm của những người đi trước.

Trong một chừng mực nào đó, câu chuyện về văn chương của Vũ Bằng và cuốn Cai của ông ở vào trường hợp như thế.



Vào khoảng 1943, 1944, (tức khi viết Cai) Vũ Bằng đã là một ngòi bút chững chạc.

Bên cạnh tư cách một ông lớn trong nghề làm báo, một tay giữ chân Thư ký toà soạn mấy tờ báo như Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Truyền bá, Trung bắc chủ nhật, ông còn là tác giả của mấy tập truyện được dư luận nhắc nhở. Một bằng chứng mặc dù nhóm Tự lực văn đoàn vốn rất thù ghét các nhà văn viết cho nhà Tân dân song năm 1937, khi Một mình trong đêm tối của Vũ Bằng được in ra, Khái Hưng đã viết bài giới thiệu trên báo Ngày nay trong đó công nhận đây là một cuốn sách “không tầm thường chút nào”.

Lại nữa, mặc dù có nhiều lời chê bai, song trong bộ sách có tính kiểm kê, Nhà văn hiện đại, phần viết về Vũ Bằng, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan vẫn ghi nhận Vũ Bằng có cái cách riêng của mình. “Khi tả nhân vật, dù là họ ở vào hoàn cảnh nghèo khổ hay cảnh giàu sang, bao giờ Vũ Bằng cũng tả bằng ngọn bút dí dỏm, nhạo đời, hơi đá hoạt kê một chút.”



Có thể đoán là khi viết Cai, ngòi bút Vũ Bằng mới thật có được sự lui tới tự do và hào hứng.

Nhân câu chuyện mình đã nghiện thuốc phiện thế nào, rồi đã cai ra sao, Vũ Bằng muốn làm một cuộc thăm thú về những sa đà lầm lẫn mình từng mắc phải, và cách thức vận dụng tất cả lương tri sẵn có tất cả nghị lực, để vượt lên trên những lầm lỡ ấy.

Ý hướng đạo lý của tác giả ở đây đã rõ ràng.

Nhưng điều quan trọng là trong Cai, thiện chí ấy lại được bộc lộ một cách thông minh và khéo léo, khiến cho câu chuyện có được sức thuyết phục mà những cách làm lộ liễu vụng về không bao giờ có nổi.

Có thể nói trong cuộc đời viết đông viết tây, viết xuôi viết ngược đủ thứ của Vũ Bằng, Cai đánh dấu một sự chín đầy trọn vẹn của ngòi bút, cái mức chín đẹp trước đó, ông chưa đạt tới và phải mấy chục năm sau, tới Thương nhớ mười hai, ông mới có dịp lặp lại.

Còn đứng về văn xuôi tiền chiến nói chung mà xét, đọc Cai, người ta thấy những tìm tòi trong văn xuôi Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, nhất là những thành tựu trong hàng loạt truyện ngắn của Nam Cao không ngẫu nhiên và cô độc. Cả một văn mạch đã hình thành. Dù là chỉ thay đổi rất từ tốn thôi, nhưng trong vòng hai chục năm gấp gáp thời tiền chiến, văn xuôi đã có những sự vận động rất hợp lý.



*



Đọc các từ điển chuyên về văn học, người ta nhận thấy các khái niệm văn xuôi và thơ thường được viết trong thế đối lập nhau.

Một bên thiên về đời thường (trong nhiều ngôn ngữ phương Tây, chữ prose proza,tức văn xuôi, khi chuyển thành hình dung từ , thì có nghĩa tầm thường)

Một bên thiên về cái cao thượng, cái siêu việt.

Một bên bảo tôi thấy gì viết nấy, bên kia bảo không, hành động viết của tôi là một hành động sáng tạo với nghĩa đầy đủ của nó.

Và đi vào nội dung được miêu tả, nếu trong văn xuôi, người ta có thể bắt gặp cả thế giới, thì trong thơ, cái chính là cái thế giới ấy được cô đúc lại, và đối tượng được miêu tả ở đây, là tâm hồn con người.



Có thể là khi sáng tác, các nhà văn Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX chưa biết tới đầy đủ cái sự phân chia thuần tuý lý thuyết nói trên, nhưng trong thực tế, họ đã tuân thủ nó một cách tự nguyện. Đại khái mỗi tác phẩm văn xuôi được viết - dù tiểu thuyết, hay phóng sự ký sự dài cũng vậy - đều là một câu chuyện. Nghe câu chuyện ấy, người ta hình dung ra một khung cảnh ở đó, có những con nguời hoạt động. Kể chuyện tức là tác giả tạo ra một thế giới thu nhỏ. Tiếng nói tác giả giống như một luồng ánh sáng soi đến đâu thì người đọc lần theo đến đấy. Cái ông tác giả đóng vai thượng đế ấy bao giờ cũng đứng cách xa bạn đọc một khoảng cách, cái gì ông cũng biết sẵn. Song chỉ dần dà ông mới khéo léo gỡ mối và khiến cho mọi chuyện rắc rối do ông bố trí trở nên mạch lạc.



Cái độc đáo của Vũ Bằng khi viết Cai là tác giả không định biến nó thành một thứ tiểu thuyết thông thường tức là khách quan hoá câu chuyện của mình theo kiểu trên đây vừa nói.

Ông không cố ý tạo ra những bức tranh phong cảnh làm nền cho câu chuyện, mà cũng chả buồn phác hoạ đầy đủ các nhân vật phụ trợ để gộp cả lại làm nên một tấn trò đời thú vị.

Ngược lại có vẻ như ông chỉ chú ý đến bản thân cùng người đọc vô hình mà ông cảm thấy như đang ở bên cạnh và muốn dốc hết bầu tâm tự cho người đó nghe.

Tuy người ta cũng thấy ở đây một câu chuyện - câu chuyện tôi, tức là Vũ Bằng cai thuốc phiện - nhưng cái nổi lên rõ hơn, bao quát các trang viết, là cái giọng riêng của người kể.

Đọc tác phẩm của Khái Hưng hoặc Nguyễn Công Hoan dù trong đó có xưng tôi đi chăng nữa, song người ta vẫn như được xem một cuốn phim. ở đó liên tiếp có những chuyển cảnh; thiên nhiên xen lẫn với chuyện đời; và những nét tâm tình chỉ được cài chen loáng thoáng.

Với Cai của Vũ Bằng thì khác. Trước mắt chúng ta toàn bộ tác phẩm như sự bột phát vừa liên tục vừa đứt đoạn của một đời sống nội tâm nồng nhiệt, chỉ biết có mình, ào ạt muốn bộc lộ mình, và nếu đôi lúc một vài hình hài của cuộc sống chung quanh có hiện lên đây đó, thì cũng chẳng qua là nhân tiện mà nói tới.

Ta hãy để ý đến từng đoạn mở đầu của các chương sách.

Trong số 24 chương của Cai, hầu như không chương nào được mở đầu bằng khung cảnh.

Mà toàn những

“Đến lúc đó, tôi mới biết rằng…”,

“Nói thế xong, tôi lại hút như thường”,

“Những đêm hút như thế thật là một thú. Tôi phải dặn trước chủ tiệm”,

“Trông thấy tôi Liên Hương có cảm tuởng gì, ông có biết không” -

tóm lại, toàn bộ áng văn xuôi này là tâm tình của tác giả, tâm tình ấy được giãi bày trong sự tha thiết đến chới với, muốn nói thật nhanh, muốn nói ra bằng được những điều bấy lâu dồn ép, và lấy việc được bộc lộ làm sung sướng.



Cũng vì chú ý giữ lấy tính chất tự nhiên của câu chuyện, và sẵn sàng xem việc viết ra là để thoả mãn nhu cầu của bản thân hơn là cho một công chúng giả tưởng nào đó được đọc, tác phẩm văn xuôi này của Vũ Bằng còn nổi bật lên với một giọng điệu riêng khó lẫn với người khác.

Trong sự tiến triển chung của nền văn xuôi trước 1945, hầu như các tác giả quan trọng đều là người có hơi văn độc đáo và chỉ cần nhớ đến Nam Cao là chúng ta nhớ ngay cái giọng riêng của ông.

Cái giọng ấy, có lúc như nói riêng mình, lại có lúc như đang hướng về người khác, đối diện với người khác. Khi nói một mình thì bâng quơ mà lại tha thiết, khi nói với người khác thì riết gióng, và đôi phen như là ngả sang dằn dỗi.

Ở quãng lùi trên nửa thế kỷ, nếu có một người gợi nhớ đến Nam Cao hơn cả thì đó chính là Vũ Bằng, trong quyển Cai mà chúng ta đang nói:



Văn Nam Cao. Hắn nghĩ về đứa con như vậy. Bởi vì hắn là một người vui tính. Hắn thích tìm ra những ý nghĩ ngộ nghĩnh để cười một mình (Cuời).



Văn Vũ Bằng trong Cai. Bạn đọc, ông đã có lần nào ốm nặng chưa? Có. Tôi biết. Đêm ấy là một đêm cuối hạ sang thu. Rét về. Người ta thấy sôi nổi ở trong lòng những sự thương nhớ vẩn vơ. Lại điểm mấy hạt mưa lất phất. Hỡi ôi, ngồi một chỗ, người ta có thể sầu mà chết bỏ đời.



Văn Nam Cao: Hắn muốn đứng lên. Sao đầu nặng quá mà chân thì lẩy bẩy. Mắt hắn hoa lên. Bụng quặn lại, đau gò người. Hắn oẹ. (Chí Phèo)



Văn Vũ Bằng trong Cai. Người ta lấy nước ở trong bụng ông ra. Được ba thùng. Như nước lọc. Tốt. Ông Bang có cơ khỏi được. Thôi, ăn mừng.



Văn Nam Cao: Họ nhìn vào căn buồng vừa mở cửa. Một đôi chân tím bầm lủng lăng trên không khí. Đó là ông lang Rận, ông thắt cổ. Ông thắt cổ bằng cái ruột tượng gốc của mụ Lợi. Cái mặt ông đọng máu sưng lên bằng cái thớt. Cái đầu ông ngoẹo xuống (Lang Rận)



Văn Vũ Bằng trong Cai: Một anh sướng ra một trò chơi không nhàm. ấy là chọn lấy một anh ốm yếu nhất, bắt phải…chết để cho anh em lo liệu. Hỏi thăm. Phủ mặt. Thắt bọng đái. Một anh đi mua tám ngọn nến thắp chung quanh người xấu số. Kèn bát âm. Bài xuân nữ. Cử ai. Cả bọn bưng mặt khóc ầm ĩ như khóc một người chết thật.



Những đoạn văn tưởng như do cùng một tác giả viết ra, trong một cuốn sách!



Nên xem xét sự gần gũi này thế nào?



Một mặt, thì như Tô Hoài đã thú nhận “Giá trị ảnh hưởng của Vũ Bằng với chúng tôi đã chắt lại ở sự gợi ý to lớn."

Mặt khác, sẽ là ngớ ngẩn, và thô bạo nữa, nếu quá rạch ròi trong phân định vai trò mỗi người trong hướng tìm tòi thống nhất nói trên.

Điều có thể rút ra ở đây, là một hướng đi mà nhiều người cùng theo.

Sau những giọng văn trung hoà mạch lạc của Khái Hưng, Nhất Linh, Lan Khai, đến giai đoạn này, văn xuôi Việt Nam bắt đầu có những tìm tòi ngả sang một thứ gì đậm hơn, gắt lên, gây ấn tượng hơn, mà cũng là giúp cho tác giả và người đọc trở nên gần gặn hơn, nó là cái xu thế chung thấy ở văn học hiện đại, tuy rằng cách bộc lộ thì mỗi trường hợp một khác.



*



Đến đây, người ta có thể đặt câu hỏi: Điều quan trọng trong một tác phẩm văn học, là ở nội dung của nó, chứ đâu có phải ở hình thức nghệ thuật? Những tìm tòi nói trên của Vũ Bằng chẳng phải là đôi khi gây thêm khó khăn cho việc tiếp nhận tác phẩm?



Thật ra thì mọi chuyện không đơn giản như vậy.



Suy cho cùng, các biện pháp nghệ thuật trong văn chương không vô can, cũng không phải tuỳ tiện. Có thể mạnh dạn mà nói rằng cái cách trình bày đời sống nội tâm tự nhiên như trên đánh dấu một trình độ mới trong quan niệm nghệ thuật của các nhà văn như Vũ Bằng hay Nam Cao.

Họ không định đứng ra răn dạy bạn đọc, theo kiểu mấy ông đồ cổ lỗ đứng ra thuyết minh đạo đức đã đành.

Mà họ cũng không cố làm ra vẻ khách quan, đứng ngoài câu chuyện, như trong mấy cuốn Nửa chừng xuân, Hồn bướm mơ tiên, Khái Hưng đã tự xác định.

Sòng phẳng hơn, họ muốn trang giấy trở thành một chỗ để tâm sự với mọi nguời, và bằng cách đó, tiến xa hơn trên con đường dân chủ hoá văn học.



Tại sao có thể nói vậy?



Chắc chắn khi muốn trở thành thượng đế trong tác phẩm, tức cái gì cũng biết, cái gì cũng sắp xếp đâu vào đấy, có mặt ở mọi nơi mà không xuất đầu lộ diện…, thực ra nhà văn đã giả thiết rằng mình đứng ở địa vị cao hơn nên so với bạn đọc trong khi kinh nghiệm cho thấy trong sự giao tiếp, khoảng cách đôi bên càng thu hẹp càng tốt, đấy là một lẽ.

Còn một lẽ nữa: Dù muốn hay không muốn, người ta cũng phải công nhận là ở con người hiện đại, đời sống tâm linh là một cái gì hết sức phức tạp, và muốn biết một nhà văn có thấu đáo lẽ đời không, mà cũng là có tôn trọng bạn đọc không, hãy nhìn xem nhà văn đó hiểu về con người ra sao.

Chính định hướng ấy sẽ quyết định toàn bộ các vấn đề kỹ thuật của tác phẩm.

Ở chỗ này, vói tư cách một người đương thời chịu để ý học hỏi, Tô Hoài tỏ ra khá nhạy cảm.

Trước tiên, ông phân tích khá rạch ròi khác biệt giữa một tác giả cũng rất nổi tiếng, và sự thực đã viết rất sớm là nhà văn Nguyễn Công Hoan, với trường hợp của Vũ Bằng.

Theo Tô Hoài mãi đến về sau này, Nguyễn Công Hoan vẫn tuân thủ nghiêm ngặt cách dựng nhân vật bằng một số thủ pháp cổ điển như:

ý nghĩ nhân vật không lẫn lộn xen với tả cảnh;

nhân vật nghĩ dứt rồi mới hành động;

miêu tả nhân vật này nghĩ và làm xong mới miêu tả nhân vật khác”.( tài liệu đã dẫn).

Trong khi đó, vẫn theo Tô Hoài, ở Vũ Bằng mọi chuyện khác hẳn:

“Vũ Bằng miêu tả nhân vật hoạt động và nội tâm khăng khít với quang cảnh, có nghĩa là cuộc sống con người quấn quýt, dằng co giữa tâm trạng và hình thức giữa tất cả với chung quanh” Tiếp đó, Tô Hoài nhấn mạnh ý nghĩa toát ra từ những biện pháp nghệ thuật trên của Vũ Bằng “Tác giả không chụp ảnh, không ghi lại không trau chuốt đưa nhân vật ra. Hình như tự các nhân vật với vấn đề và triết lý tư tưởng của mỗi số phận với xã hội tác động nhau, nghiêng ngả khi say khi tỉnh trong đau khổ và những niềm vui bé nhỏ của đời người” (tài liệu đã dẫn).

Thì ra là thế! Để hiểu quan niệm về con người của một nhà văn trước tiên phải xem xét cái thái độ yêu thương trân trọng hay xem thường thậm chí ghen ghét mà tác giả tuyên bố hoặc trực tiếp bộc lộ qua việc miêu tả.

Nhưng ngoài ra, còn một biểu hiện nữa gián tiếp hơn, đó là hãy nhìn tổng quát xem trong tác phẩm đó, tâm lý nhân vật là đơn giản hay phức tạp, thẳng đơ một chiều hay là muôn hình muôn vẻ, và luôn luôn biến chuyển không dễ gì nắm bắt nổi.

Theo hướng thứ hai mà xem xét, có thể bảo cái giọng văn, cái hơi hướng câu văn kiểu như Vũ Bằng cũng như Nam Cao là một cách thức để làm cho văn chương gần với con người hơn, nhất là những con người “khi say khi tỉnh trong đau khổ và những niềm vui bé nhỏ” là đa số chúng ta. Sở dĩ có thể nói văn học càng hiện đại hơn thì càng dân chủ hơn, lý do chính là như thế.



*



Những ngưòi có tìm hiểu kỹ đời sống văn học 1932-1945 đều biết Vũ Bằng là một trường hợp hết sức mâu thuẫn: Một mặt ông thông minh, nhạy bén, vừa viết văn vừa viết báo và có ảnh hưởng đến nhiều đồng nghiệp đương thời. Mặt khác, đó lại là con người sống ào ào, viết ào ào, cẩu thả, dễ dãi ngay với những trang viết của mình, lấy việc không viết gì đến nơi đến chốn làm thói quen thường trực. Những tài hoa sắc sảo của ông thường tản mát đây đó.

Quá tự tin, hay quá khinh xuất, ông để nó vung vãi khắp nơi, và ngẫu nhiên bột phát đến đâu thì đến.

Đôi khi, vừa đọc xong một trang rất hay của ông, người ta bắt gặp những trang viết tuỳ tiện “không thể thương nổi”, và nói chung cái tình trạng được mặt này hỏng mặt khác không chỉ là chuyện của riêng tác phẩm nào mà là của cả đời văn ông nữa. Bởi thế, trong khi một số người gần gũi mến ông vì tài, quý ông vì sự sống cởi mở với chung quanh, thì người ở xa dễ có cảm tưởng là ông loăng quăng, không đâu vào đâu.

Ngoại trừ trường hợp Vũ Ngọc Phan (với Nhà văn hiện đại), hầu như không có nhà nghiên cứu nào khi xem xét lịch sử văn học 32-45 để công viết riêng - viết kỹ về ông, bởi đại khái người ta cho ở Vũ Bằng lượng nhiều hơn phẩm, làm ồn gây nhiễu cho đời sống văn chương hơn là có đóng góp cụ thể.



Một cách đánh giá như thế không khỏi có chút bất công.

Nhưng làm sao khác được?!

Chính Vũ Bằng là tác giả của cách tồn tại của ông trong văn học.

Có điều, cũng nên nói thêm là trong khi những người khác thuận lợi hơn, được só mệnh phục trợ hơn, thì hình như ông không gặp may nữa. Trường hợp hồi ký Cai. Chính là ví dụ về sự không gặp may đó.



Người tò mò có lẽ không bỏ qua mấy dòng ghi ở cuối bản Cai in lần thứ nhất:



In xong ngày 30 Septembre 1944



Tại nhà in Tân Dân Hà Nội



Tạm thiên về



Mục Xá, Thanh Oai, Hà Đông




Lúc bấy giờ, cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai đã đi gần đến hồi kết thúc, nó lây lan sang cả Đông Dương. Và trên mảnh đất hình chữ S mà dân ta đang sinh sống, lòng người gần như không thể bình tĩnh nữa, lòng người đang chờ đợi những thay đổi lớn.



Có lẽ vì lý do như thế nên cuốn Cai chìm đi ngay khi ra đời, hầu như rất ít người được đọc nó, lại càng không ai nhắc nhở nó trên báo chí, và một thời gian dài, người ta không biết có nó trên đời.

Ngày nay đọc lại Cai, trước tiên chúng ta vui mừng vì được tiếp xúc với một tác phẩm lành mạnh - nó cổ vũ mọi nguời kiên quyết hơn trong cuộc đấu tranh chống lại một tệ nạn xã hội tàn phá ý chí và sức khoẻ con người.

Nhưng về mặt văn chương mà xét, với Cai, người ta bắt gặp một tác phẩm văn xuôi dài hơi tự hoàn chỉnh trong giọng điệu và là một thể nghiệm độc đáo về mặt thể loại.

Cùng với nhiều tác phẩm đương thời, cuốn sách này của Vũ Bằng cho thấy đến những năm 40 của thế kỷ này, văn xuôi Việt Nam đã trưởng thành, nó trở nên biến hoá đa đạng hơn, mà cũng là dẻo dai mềm mại hơn, tự bản thân nó đã là một bằng chứng ghi nhận sự phát triển tinh vi phức tạp đã đến trong đời sống và trong nội tâm con người hiện đại.



1997



Lời giới thiệu viết cho Cai, hồi ký của Vũ Bằng NXB Hải Phòng 1997.

In lại trong Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá trong văn học Việt nam

từ đầu thế kỹ XX cho tới 1945
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội 2005




Thứ Năm, 20 tháng 8, 2015

Đang nằm trên võng, người đàn ông bị 3 thanh niên lạ mặt chém tới tấp

Chiều ngày 19/8, thông tin tuc hang ngay từ ông Nguyễn Anh Nồng – Trưởng công an xã Thạch Sơn, huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh cho biết, đơn vị đang phối hợp với công an huyện Thạch Hà tiến hành điều tra 3 đối tượng lạ mặt có hành vi cố ý chém người gây thương tích rồi bỏ trốn.

Trước đó, khoảng 20h30 ngày 13/8, ông Trương Hữu Tú (SN 1958) trú ở thôn Tri Khê, xã Thạch Sơn, huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) vừa đi chơi về, trong lúc đang nằm nghỉ ở chiếc võng trước cổng nhà cho mát, bất ngờ có 3 thanh niên lạ mặt đi xe máy đến xông vào chém tới tấp vào người ông. Sau khi gây án, các đối tượng lập tức lên xe rời khỏi hiện trường.

Ông Nguyễn Anh Nồng cho biết, sau khi nhận được tin báo, lực lượng công an huyện, công an xã đã nhanh chóng có mặt tại hiện trường.

Khi tới nơi, các đối tượng đã bỏ chạy, lực lượng chức năng nhanh chóng đưa anh Tú vào Bệnh viện Đa khoa Hà Tĩnh để cấp cứu.

Ông Tú đang được điều trị tại bệnh viện ĐK Hà Tĩnh.Ảnh báo gia dinh

Được biết, ông Tú bị chém 8 nhát vào tay, chân và lưng. Sau gần một tuần điều trị, sức khỏe của ông Tú đã dần ổn định. Tuy nhiên, do vết thương ở đầu gối khá sâu nên vẫn đang bị chảy dịch.

Theo điều tra ban đầu, ông Tú là thợ xây, tính tình hiền lành không có xích mích gì với ai. Vậy nên, nguyên nhân ông Tú bị chém có thể là các đối tượng chém nhầm người, ông Nồng cho biết thêm.

Hiện công an huyện Thạch Hà đang điều tra, rà soát các đối tượng để làm rõ sự việc.

Thứ Tư, 19 tháng 8, 2015

Điểm lại quan niệm về hồi ký và các hồi ký đã in trong khoảng 1990-2000 ( bài tiếp)



 Những trang ghi chép của một cán bộ chính trị có cốt cách trí thức 



(Đọc Nhật ký của bộ trưởng tác giả Lê Văn Hiến, 

Nhà xuất bản Đà Nẵng 1995)





Trong đời sống hàng ngày, hai chữ nhật ký đã quá quen thuộc, người ta không thể hiểu sai về nó hoặc lúng túng khi phải nhận diện nó.

Song, không rõ việc viết nhật ký ra sao, chỉ biết đến nay, ở ta quả thật các tập nhật ký được in ra còn quá ít ỏi, tới mức nhiều người chưa muốn xem nó là một thể tài văn học. Tại sao có sự thưa vắng đó? Để trả lời câu hỏi này, người ta phải nhìn vào hoàn cảnh cụ thể cùng cái tâm lý nảy sinh và kéo dài trong hoàn cảnh ấy.



Từ sau 8-1945, đời sống đất nước luôn luôn trong thế sôi động; chiến tranh liên miên; con người long đong nay đây mai đó nhiều cán bộ chiến sĩ gia tài quy lại chỉ là một chiếc ba lô, có những phen mọi thứ khan hiếm, xin được tập giấy, kiếm được bình mực đã khó, những chuyện tưởng như nhỏ nhặt ấy thật dễ làm người ta ngần ngại. Ấy là chưa kể viết xong, cất giữ ra sao, bảo quản thế nào, việc đâu có dễ.

Vả chăng nói gì thì nói, viết nhật ký trước tiên cũng là một cách tự mình tâm sự với mình, tự mình chấp nhận cái đa đoan phiền phức của cuộc sống riêng tư và muốn nâng niu nó, bảo vệ nó.

Trong khi ấy, để thích ứng với hoàn cảnh xã hội “nước sôi lửa bỏng” mỗi con người lại đã thường xuyên giáo dục và bản thân cũng thấy cần xếp cái riêng tư của mình lại, tự nguyện gạt bớt những phiền phức của cái tôi để sống càng đơn giản càng tốt.

Lâu rồi quen đi, tự nhiên cảm thấy công việc viết nhật ký là cả một chuyện xa xỉ, không mấy ai có gan tiếp tục đều đặn.



Chính trên cái nền chật hẹp ấy mà sự ra đời Nhật ký của một bộ trưởng là một điều đáng để ý.

Cuốn sách đọc khá thú vị.

Và trong chừng mực nào đó còn có thể xem đây là một gợi ý: Nó cho thấy khả năng đóng góp của mỗi người đối với đời sống mà nếu không sợ quá to tát, phải nói tới một cái gì như là trách nhiệm của mỗi cá nhân trước sự vận động sôi nổi của lịch sử; phải có nhiều người đứng ra ghi chép – ghi chép một cách trực tiếp trong thể nhật ký -thì các thế hệ tương lai mới có tài liệu để hình dung ra cuộc sống mà các thế hệ đi trước đã sống.

Về phương diện tư liệu mà xét, bộ sách gần 1000 trang khổ lớn (16×24) của Lê Văn Hiến là cả một kho ghi chép phong phú.

 Thời gian cuốn nhật ký bao quát khá dài, từ 19-12-1946 đến 6-5-1952.

Trên cương vị một thành viên trọng yếu của bộ máy lãnh đạo đất nước, tác giả có dịp tham gia vào việc soạn thảo nhiều chính sách cũng như tự mình có mặt trong không ít sự kiện lớn lao của những ngày kháng chiến.

Có điều, dù các sự kiện ấy từng được miêu tả đầy đủ trong các bộ sử lớn nhỏ – và ở đây Lê Văn Hiến cũng không nói gì khác – thì cái cách những người trong cuộc sống, bàn bạc, chuẩn bị cho các sự kiện ấy rồi cảm nhận chúng ra sao cũng gần như chưa ở đâu nói tới, và chỉ nhờ đọc các ghi chép loại như của Lê Văn Hiến người ta mới biết.

Hãy nói tới chuyện di chuyển.

Cái hào hứng khi phải phóng những chiếc xe cũ nát, sáng ở Cao Bằng chiều ở Thái Nguyên, hôm sau đã phải quay về Vân Đình Hà Đông dự họp; cái bồn chồn, khi gặp một cơn lũ, phải dừng lại, trong khi bên kia sông, một hội nghị lớn đang chờ, hoặc những phen vừa bực mình vừa buồn cười, khi đi theo chiếc đầu máy xe lửa cổ lỗ lại đốt bằng củi tươi, ậm ạch mãi mới đi được vài cây số – đấy là những tình cảm khác nhau, mà chỉ con người kháng chiến mới có.

Một cuộc sống hấp dẫn, là một cuộc sống luôn gây ra cho người ta ngạc nhiên, chờ đợi.

Thỉnh thoảng trong Nhật ký của một bộ trưởng, Lê Văn Hiến không  quên ghi lại những phút bỡ ngỡ mà một người như ông thể nghiệm khi lần đầu gặp gỡ núi rừng Việt Bắc: nào nỗi lạ lùng, khi nhìn thấy cây thuốc phiện; nào một thoáng rờn rợn, khi qua một đoạn đường cheo leo, đã có lắm người thiệt mạng; nào nỗi xao xuyến khi qua một đoạn đèo khác – lần này là đèo Lê -a ở Cao Bằng – nghe nói ở đây có tuyết mà mình chưa được nhìn thấy bao giờ.

Một buổi sớm mùa đông làm việc ngoài nắng đối với tác giả, đôi khi cũng mang lại ý vị riêng nói chi những chuyến phóng ngựa băng rừng, những lần xuôi thuyền sông lớn. Nhưng cái điều khiến tác giả chú ý hơn cả và được ông ghi vào nhật ký nhiều hơn cả, là những tình tiết éo le trong mối quan hệ giữa người và người, những rắc rối nảy sinh trong công việc. Đọc qua người ta có thể ngạc nhiên sao trong nhật ký của mình, một bộ trưởng bộ tài chính thỉnh thoảng lại nhắc đến những kho muối và việc xuất kho vài cân muối.

Nhưng kháng chiến là thế, kháng chiến có chuyện hành quân vây đồn, tiêu diệt căn cứ địch, nhưng còn có chuyện đồng tiền bát gạo, chuyện in thêm tiền mới, chuyện đấu tranh chống vòng vây kinh tế của địch.

Liệu cách nào giúp đỡ thêm đơn vị nọ, đơn vị kia đang gặp khó khăn?

 Nơi nào đang tiêu pha lộn xộn?

 Nơi nào lỏng tay quản lý, để công quỹ bị biển thủ?

 Bấy nhiêu câu hỏi luôn luôn trăn trở trong đầu óc ông bộ trưởng và mỗi khi làm việc quá sức con người thật dễ cảm thấy mệt mỏi.

 Nhưng công việc nào rồi cũng có lúc xong, khoan khoái biết mấy là sau những đêm chí đầu vào đống công văn, sáng sớm hôm sau, được vác cuốc ra chăm sóc đám rau bên nhà, kế đó là nỗi hoan hỉ được mang ít cân rau tươi mới hái cùng vài cân cá khô, mấy chai nước mắm, tới biếu các bộ trưởng khác.

Rồi niềm vui khi được tin một chị trong cơ quan sinh thêm một cháu nhỏ.

 Rồi một thoáng buồn khi thấy anh em nhận được thư gia đình, còn mình thì mấy tháng nay quê nhà bặt vô âm tín.

Với tư cách những trang ghi chép tự nhiên ( như tác giả nói, là không được tu bổ cắt xén trước khi mang in), Nhật ký của một bộ trưởng có một đường dây tình cảm quán xuyến, đó là những quan tâm, băn khoăn, chờ đợi của tác giả với người bạn đời của mình.

Nhưng những đoạn tình cảm riêng tư ấy không lạc lõng mà hoà hợp với giọng điệu chung của cuốn nhật ký và lại cho thấy đầy đủ hơn hình ảnh của người cán bộ kháng chiến  mà tác giả muốn trình bày và chúng ta muốn biết.

Cũng nên nói thêm rằng do đặc điểm riêng của nó, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bấy giờ là một cuộc chiến đấu có văn hoá.

Bên cạnh cái ào ạt, cái bột phát, do đó là cái lộn xộn không tránh khỏi của một cuộc chiến tranh, thì nhiều nền nếp vốn có trong  những năm tháng thanh bình vẫn còn duy trì ảnh hưởng trong cuộc sống mọi người, và điều này cũng thấy khá rõ qua những trang Nhật ký của một bộ truởng.

 Cùng với tác giả, ta biết rằng giữa núi rừng Việt Bắc, báo chí vẫn ra đều đều, nhiều đêm kịch vẫn đông nghịt người,  sách vở vẫn được truyền tay và những giá trị văn hoá cổ truyền vẫn có mặt trong đời sống hàng ngày.

“Không lúc nào như lúc này, ai nấy đều khoái Kiều”. Xong một buổi hội nghị, trước một cảnh đêm trăng, mỗi người đều cất giọng ngâm Kiều.

Chẳng những thế, những lớp huấn luyện chuyên môn vẫn được mở, các nhà chuyên môn được tôn trọng và ở một đoạn nhật ký, tác giả còn kể rằng ông không quên dành thời gian, để thông qua những quyển sách bằng tiếng Pháp, tìm hiểu về chính sách tiền tệ ở các nước khác và khoa học tài chính nói chung. Ông còn muốn học và biết rằng cần phải học.

Tóm lại, qua cuốn sách thấy hiện ra một cách sống khiêm nhường, thuần hậu, cầu tiến, ham học, xa lạ với mọi kiêu căng càn rỡ. Một cuộc sống tinh thần lành mạnh, nó tương phản với đời sống vật chất kham khổ, nhưng chính nó lại khiến cho con người trở thành những nhân cách đáng vì nể.

Cho tới ngày hôm nay, cuộc kháng chiến chống Pháp sở dĩ còn giữ được ánh hào quang thiêng liêng, một phần là vì đã đi được tới chiến thắng bằng nỗ lực và sự tận tuỵ của những con người như thế.(*)


                                    (*) Ghi chú 20-8-2015


Nguyên bài viết có tên là Những
trang ghi chép chân tình. Chúng tôi đổi lại  cho hợp với nội
dung bài mà cũng là để làm rõ cái đặc sắc riêng của ngòi bút Lê Văn Hiến. 
Trong
khi các nhân vật tương tự như ông không mấy người viết nhật ký và về già chỉ
viết hồi ký để kể công để tự ca tụng, thì ông viết nhật ký kể những suy nghĩ hàng ngày của mình. 
Trong người cán bộ chính trị này còn có cốt cách một  trí
thức.






 Mỗi số phận chứa một phần lịch sử



Nửa đêm sực tỉnh của Lưu Trọng Lư và Nhớ nghĩ chiều hôm của Đào Duy Anh, Cát bụi chân ai của Tô Hoài và Một mảnh tình riêng của Sơn Nam, Hồi ký Nguyễn Hiến Lê  Hồi ký Trần Huy Liệu…đây đó, chúng ta đã được nghe giới thiệu về một số tập hồi ký của các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, nói chung là của các nhà hoạt động văn hoá mà cuộc đời và sự nghiệp gắn liền với sinh hoạt tinh thần của xã hội ta từ đầu thế kỷ XX tới nay.

Nhưng đó mới chỉ là một bộ phận nhỏ trong các hồi ký đã xuất bản.



Trong thực tế, còn phải nói tới hai loại hồi ký khác.

1. Hồi ký của các nhà hoạt động chính trị, quân sự từng giữ nhiều trọng trách trong guồng máy điều hành đất nước.

2. Hồi ký của những người bình thường có tham gia công tác xã hội nhưng chỉ ở những cương vị rất khiêm tốn, thậm chí, có khi chỉ loanh quanh chuyện kiếm sống, và nuôi dạy con gái, song do chỗ biết khai thác hợp lý, những cuộc đời được kể lại ở đấy vẫn mang dấu ấn thời đại sâu sắc.

Như người ta thường nói đùa, nhiều người Mỹ cả đời chỉ chăm chăm ra tranh cử Thượng viện, Hạ viện và nếu trở thành tổng thống thì càng hay vì tuy là tổng thống 8 năm là cùng, nhưng với họ, đấy chính là thời gian thu thập tài liệu để viết nên những quyển hồi ký mà lúc in ra thường chạy như tôm tươi và tiền tác quyền đủ cho tác giả sống ung dung cho đến lúc chết.



Nghiêm chỉnh hơn, người ta nhắc đến những tập hồi ký nổi tiếng của Churchill, của De Gaulle, của Khrouchev, mà sau khi tồn tại như sách bán chạy một thời, lại trở thành đối tượng để các nhà sử học vục đầu nghiên cứu, mổ xẻ.

Gần đây hơn, để đánh dấu thời kỳ chiến tranh lạnh kết thúc, có các hồi ký B.Enxin, A.Sobchac, T.Givkov… (một số đã được dịch ra tiếng Việt). Không phải đợi đến khi tác giả kết thúc sự nghiệp mà thời nay các hồi ký được viết sớm hơn, người ta có thể vừa tiếp tục sống và làm việc vừa viết, sống đến đâu viết đến đó, các cuốn hồi ký không được thật chín như đáng lẽ nó phải có, song lại được cái nhanh nhạy trả lời tức thì cho những điều nhiều người quan tâm.



Không phải chỉ ở xứ người, hồi ký được ưu ái vậy, mà ngay ở xứ ta dư luận cũng từng săn đón chờ đợi những cuốn sách thuộc thể tài này.

Vào khoảng đầu những năm 60, bạn đọc Hà Nội và ở miền bắc những năm đó nói chung, rộ lên tìm đọc đợt hồi ký do các chiến sĩ cách mạng lâu năm như Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt… kể và nhiều nhà văn, nhà báo ghi.

Tiếp đó là đợt hồi ký viết về Điện Biên Phủ. Ngay trong những năm chống Mỹ bận rộn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp vẫn cho công bố hồi ức của mình về những hoạt động đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (Từ nhân dân mà ra) về những ngày trứng nước của chính quyền mới, ngay sau 1945 (Những năm tháng không thể nào quên).

  Từ sau ngày đất nước thống nhất, nhiều tướng lĩnh quân sự lại đã dần dần, mỗi người vào lúc thuận lợi nhất, bắt tay vào việc tổng kết đời mình, hoặc kể lại một ít sự kiện quan trọng nhất mình có tham dự qua những cuốn hồi ký.

Đó là, chẳng hạn, Đi theo con đường của Bác của Văn Tiến Dũng, Những năm tháng quyết định của Hoàng Văn Thái, Từ Đông Quan đến Điện Biên Phủ của Lê Trọng Tấn, cùng nhiều hồi ức của Hoàng Cầm, Đàm Văn Nguỵ, Nguyễn Tư Cương, Hoàng Văn Khánh, Lê Quang Hoà, Nguyễn Chuông v.v… và v.v…

Cũng trong vòng mười năm lại đây, nhiều nhà hoạt động chính trị nổi tiếng ở ta đã chia sẻ với bạn đọc những kỷ niệm vui buồn của chính đời mình. Ở ô mục lục của Thư viện quốc gia, chúng tôi ghi được một số cuốn mới xuất bản những năm chín mươi như sau:

– Trần Hữu Dực – Bước qua đầu thù (hai tập)

– Lê Thanh Nghị – Trọn một cuộc đời (hai tập)

– Trương Thị Mỹ – Người con gái xóm thợ

– Nguyễn Thị Thập – Từ đất Tiền Giang

– Vũ Quốc Uy – Bình minh trên sông Cấm

– Mai Văn Bộ – Tấn công ngoại giao và tiếp xúc bí mật

Trong năm 1995, nhiều bạn đọc lại có dịp đọc Hồi ký Vũ Đình Hoè, hoặc Những mẩu chuyện đời tôi của Mai Chí Thọ.

Có thể dự đoán  trong thời gian tới, các hồi ký loại này còn được tiếp tục ra đời, bởi nếu được viết nghiêm chỉnh chúng là những chứng tích sống động của lịch sử và rất có ích cho bạn đọc.



Tuy ở mỗi quốc gia, tình hình có khác, nhưng nhìn chung phải thừa nhận nay là lúc, trên toàn thế giới, xu hướng dân chủ thắng thế.

Tôi hiểu xu thế dân chủ ở đây với nghĩa  thời đại mở ra triển vọng sống và tồn tại cho mỗi người bình thường, nên mặc dù, có khi không trực tiếp tham gia vào các sự kiện lớn của đất nước, không phải những nhân vật quan trọng song nhiều người vẫn cảm thấy cuộc đời của mình có gì đó đáng ghi lại.

Trong khi thực hiện các nhu cầu riêng này, người ta thành tâm tin rằng người khác, đọc hồi ký hoặc tự truyện của mình, sẽ nhận ra cuộc đời họ, và rộng hơn thấy cả bóng dáng lịch sử.

Loại hồi ký của những người bình thường xuất hiện từ lý do bình dị mà sâu sắc như thế.



Không ở đâu xa, mà ngay ở miền Bắc,  hồi trước 1965, phong trào viết kỷ niệm sâu sắc trong đời bộ đội, đã lôi cuốn được nhiều cán bộ chiến sĩ tham dự.

Còn đến thời gian gần đây, các tác giả loại hồi ký này mở rộng tới nhiều người thuộc những ngành nghề khác hẳn nhau. Bản thân tên gọi các cuốn sách đã xác định điều đó.

– Kỳ Thu – Khép lại quá khứ đau thương

– Trần Thị Hương – Bất hạnh không của riêng ai (Tự truyện)

– Đỗ Tuyết Mai – Tuổi năm mươi nhìn lại

– Phạm Thị Trinh – Những chặng đường của người mẹ

– Đặng Nguyệt Nga – Cuộn len

– Đặng Thị Hạnh – Bà và cháu

Sẽ không có gì lạ, nếu như ai đó nhận xét, loại hồi ký này đang là hiện tượng hiếm hoi. Giữa thời buổi các phương tiện nghe nhìn ồ ạt phát triển, các chương trình phim truyền hình nhiều tập, cùng chương trình nhạc pop, nhạc rốc… lúc nào cũng chỉ chờ người ta ấn nút để xuất hiện trên màn ảnh nhỏ và làm đầy cuộc sống gia đình – vâng, trong hoàn cảnh ấy mà bảo những người bình thường (không phải người chuyên ngành nghề viết lách; cũng không phải nhân vật từng có cương vị quan trọng, hay được các cơ quan thúc đẩy và hỗ trợ) ngồi trước trang giấy, tự kể lại đời mình – quả là chuyện xa vời ! Song bởi vậy, một ít cuốn hồi ký đã in ra thật đáng trân trọng và những ai đã ướm thử ngòi bút trong công việc này, vẫn nên dũng cảm làm tiếp.(*)






(*) Ghi chú 20-8-2015

Đây là nhận xét viết ra từ mười lăm năm về trước. Ở thời điểm 2015, tôi thấy tình hình có khả quan hơn về số  lượng nhưng xét ở khía cạnh chất lượng thì các hồi ký viết ra vẫn còn rất yếu, và cái gọi là phong trào nếu có chưa đạt tới mức đáng ra phải có. 



Có hai lý do chính 1/ Quan niệm về lịch sử, về quá khứ nói chung của cả xã hội đang  dừng lại ở mức cổ lỗ mấy chục năm về trước  và 2/ Không có sự đóng góp của giới cầm bút chuyên nghiệp. Vì  trong quan niệm về lịch sử về xã hội, là nhân tố chủ đạo trong việc soi rọi quá khứ, chính giới này cũng đang dừng lại ở trình độ như mọi tầng lớp khác.









Điểm lại quan niệm về hồi ký và các hồi ký đã in trong khoảng 1990-2000


Khoảng 1965-70, khi tôi mới bước đầu làm quen văn học Nga – xô viết thì
cũng là lúc nền văn học này, sau 50 năm phát triển, bước vào giai đoạn tổng
kết, mà một trong những cách cách tổng kết lôi cuốn nhất là việc các nhà văn dành nhiều tâm huyết viết hồi ký.


Nhờ đó tôi đã được đọc Chuyện đời
tôi
của K Paustovsski, Cỏ lãng quên
của V.Kataev, Không ngày nào không viết mấy dòng của J.Olesa và nhất là cuốn Con người
năm tháng cuộc đời
của I.Erenburg, một cuốn hồi ký đồ sộ nó giống như một
thứ bách khoa thư của văn học Nga nửa đầu thế kỷ XX. Mới đầu tôi được anh Nguyễn
Thụy Ứng cho mượn bản in trên Novyi mir, tiếp đó được đọc bộ này trong Tuyển tập chín cuốn của nhà văn. Sau này tôi đã cùng với các đồng nghiệp khác dịch một số chương trong cuốn Hồi ký nói trên làm thành tập Những người cùng thời in ra ở Nxb Văn học.




 Cũng thời gian 1965-1970, trong các câu
chuyện mà các nhà văn Nguyễn Khải, Nguyễn Thành Long, Trần Đĩnh kể với tôi, các
anh nhớ tới các hồi ký của A.Maurois, nhất là bộ Phản hồi ký của A. Malraux.


 Tôi nghe lõm bõm, song lại rất nhớ
cái quan niệm về hồi ký ẩn sau các cuốn sách đó.


 Trước sau 1965, các hồi ký
của các nhà văn VN bắt đầu lác đác xuất hiện. Khi những Đời viết văn của tôi của Nguyễn Công Hoan, Bước đường viết văn của Nguyên Hồng và Tự truyện của Tô Hoài in ra tôi đều đọc cẩn thận và có ghi chép riêng
về từng tập.


 Tới khoảng thời gian từ 1989/1990
cho tới trước sau 2000, khi giữ trang văn học cho tờ Thể thao & văn hóa, tôi càng có dịp theo dõi thể hồi ký, và nhờ
đó đã viết được một chùm bài về thể văn, sau in lại trong cuốn Chuyện cũ văn chương 2001, và hôm nay
đưa lại làm hai kỳ.


 Trong chùm bài này còn có bài viết
mang tên Con mắt Tô Hoài bóng dáng Nguyễn
Tuân
liên quan tới Cát bụi chân ai
, xem 
Ba bài viết ngắn về Tô Hoài  nhưng vì bài viết đã được đưa trên blog  phần về Tô Hoài, nên tôi
không đưa lại vào đây.


 Về các hồi ký được in ra từ sau
2000, tôi cũng có viết được thêm mấy bài, sẽ tiếp tục đưa trong các kỳ tới.




                                              

                                        Bản tổng kiểm kê của mỗi cuộc đời.







Hiểu hồi ký văn học như thế nào?

A. Malraux, nhà văn Pháp, hiện đại, từng viết đại ý “chỉ có hồi ký là
những cái đáng viết”. Có vẻ như ông muốn nói người ta chỉ thành công
khi viết về những cái mình thành thạo hơn cả. Mà chỗ thành thạo đó,
thường là chính mình.

Không chắc là nhận xét đó của Malraux bao giờ cũng đúng.

 Có nhiều
người giả dối cả khi viết nhật ký (là thứ viết cho chính mình) đừng nói
chi đến hồi ký (là thứ viết cho bạn đọc). Và trên đời này, mấy ai dám
chắc tự hiểu về mình một cách thấu đáo?!

Thế nhưng, ít ra nhận xét đó cũng đúng với một số người trong đó có
I.Ehrenburg, cây bút có một số phận tiêu biểu cho nhiều nhà văn thế kỷ
XX.

Khi còn sống, I.Ehrenburg nổi tiếng là người viết nhiều, viết khoẻ,
các nhà xuất bản ở Liên Xô đã ba lần làm tuyển tập cho ông, mỗi lần một
khác.

Vậy mà nếu chọn ra tác phẩm làm cho I.Ehrenburg nổi tiếng hơn cả,
thì phải kể là bộ hồi ký Con đường, năm tháng, cuộc đời ông
viết khi đã 70.

Ở đó, tác giả kể ra nhiều chuyện thuộc về hậu trường văn
học.

Ở đó, nói nôm na, ông lật tẩy mình và nhất là lật tẩy nhiều bè bạn
cũ, những người đương thời, lật tẩy một cách ngang ngược, nhưng vẫn đau
xót, thông cảm.

Trong cuốn hồi ký hàng ngàn trang ấy, không phải bao
giờ Ehrenburg cũng có cái nhìn đúng đắn, thậm chí khó nói là ông hoàn
toàn thành thật, chỉ có điều chắc là ông đã viết rất chủ quan, tức chỉ tôn trọng trí nhớ của mình.

 Đấy chính là lý do khiến nhiều người, cả
người Nga, lẫn người Mỹ, người Anh, người Nhật… dù khó chịu với tác
giả, vẫn thích đọc. Một nhà văn đã nói thẳng ra rằng bắc cân lên mà
tính, tập hồi ký này còn “nặng” hơn tất cả những gì Ehrenburg đã viết từ
trước. Chỉ có một ông già khôn ngoan quỷ quyệt mới có một cuộc kiểm kê
đời mình thông minh đến thế.

Người ta thường nói sống giữa nền văn minh kỳ lạ của thế kỷ XX con
người cảm thấy hết sức đơn độc.



Một thể tài mới mẻ

Lẽ đương nhiên, loại hồi ký đóng vai trò
“tôi lật con bài của tôi” như hồi ký của Ehrenburg loại đó rất nhiều, ở
nền văn học nào người ta cũng bắt gặp vài ba cuốn.

Nhìn vào tình hình hồi ký ở Việt Nam phải nói ngay là thể loại này
đối với chúng ta còn đang xa lạ. Đây đó, chỉ mới thấy in một số hồi ký
của các nhà văn kỳ cựu như Đời viết văn của tôi của Nguyễn Công Hoan, Bước đường viết văn của Nguyên Hồng, Hồi ký của Đặng Thai Mai, Từ bến sông Thương của Anh Thơ, Những năm tháng ấy của Vũ Ngọc Phan, nếu tính cả sách in ở Sài Gòn trước 1975 thì có thể tạm kể  Bốn mươi năm nói láo của Vũ Bằng, Văn thi sĩ tiền chiến của Nguyễn Vĩ v.v…

Nhưng hầu hết các cuốn sách ấy không gây được tiếng vang lớn.

 Không
kể một số cuốn viết dang dở, chưa bắt được vào các mạch chính của câu
chuyện, chưa chạm đúng vào khu vực người đọc muốn tác giả “hồi tưởng và
suy nghĩ”, một căn bệnh chung của các cuốn còn lại là không khai thác
hết những khả năng mà thể loại cho phép:

+ hoặc thiên về kể những chuyện
vặt, chuyện tào lao mà thiếu một tầm vóc khái quát,

+ hoặc giản dị hơn,
bắt tay viết hồi ký vào lúc tâm lý đã dở chứng, nặng về ca công tụng
đức, chỉ chăm chăm tô vẽ cho chính mình, nên độc giả khó tin.

Ấy là
không kể những trường hợp nhớ sai, nhớ nhầm: trong khi ở nhiều nước, nhà
văn viết hồi ký thường sử dụng người giúp việc, người sưu tầm, tài
liệu, thì nhà văn Việt Nam chỉ đánh vật với trí nhớ, nên có nhớ nhầm
cũng là chuyện dễ hiểu.

 Thậm chí đã có những sai lầm quá đáng đến mức
đọc xong hồi ký, người đọc ngờ ngợ, không rõ tác giả định làm hồi ký hay
viết tiểu thuyết.

Có trường hợp đọc lại sinh ra kiện tụng nhau nữa.

Cái
đó quá phiền, không chỉ làm cho nhiều bạn đọc nghi ngại, mà cả một số
nhà văn cũng đâm chán không muốn bước vào cuộc tổng kiểm kê đời mình
nữa.



Nhân tiện, một câu hỏi khác được đặt ra: khi nào thì nhà văn nên viết
hồi ký? Khi về già, tất nhiên rồi. Có điều các nhà văn cũng như phụ nữ,
thường không thích nhận mình đã già.

Họ ngại rằng viết hồi ký, rồi hồi
ký được xuất bản, có nghĩa là đời mình đã tới lúc hết.

Vậy nên cứ lần
chần mãi.

Đùng một cái nhà văn qua đời mang theo bao nhiêu kinh nghiệm
và từng trải xuống mồ.

 Cả Nguyễn Tuân lẫn Xuân Diệu, những khuôn mặt
sáng giá bậc nhất của văn học Việt Nam trong thế kỷ này, đều không kịp
viết hồi ký như vậy.

Ngoài ra có lẽ cũng nên lưu ý là cái sự hồi tưởng và suy nghĩ
chỉ có ý nghĩa khi được viết bằng một ngòi bút tỉnh táo trong xét đoán
việc của đời mình cũng như của thiên hạ.

 Nói cách khác, người viết chỉ
được phép già trên phương diện thể chất mà không được già về mặt tinh
thần.

 Nếu thiếu đi sự trẻ trung tươi mới trong cách nhìn, nếu hoàn toàn
là sản phẩm của sự già nua cuốn sách sẽ trở nên không cần thiết cho ai
cả.



Mấy cuốn hồi ký in ra gần đây

Từ 1945 tới nay, số lượng hồi ký văn học ở ta được in chỉ đếm trên
đầu ngón tay, tính trung bình vài năm mới được in một cuốn.

Cũng có thời
gian rộ lên, một năm hai cuốn được in.

Trong năm 1989 đó là trường hợp Nửa đêm sực tỉnh của Lưu Trọng Lư (372 trang) và Nhớ nghĩ chiều hôm của Đào Duy Anh (284 trang – từ đây trở xuống đều ghi theo số trang bản in lần đầu).



Cuốn sách của Lưu Trọng Lư có một phụ đề rõ ràng: Nhớ lại những mối tình.
Nhà thơ không định kể lại hoạt động văn học mà chỉ theo đuổi một ít kỷ
niệm trong cuộc đời riêng. Nhân vật chính được nói ở đây, ngoài Lưu
Trọng Lư, là người vợ thứ của ông. Tuy vậy, thỉnh thoảng vẫn thấy trong
cuốn sách đan xen vào đoạn nhắc nhở tới một trong hai người bạn cũ của
tác giả.

Chẳng hạn như Nguyễn Tuân.

Thanh Hoá là nơi đóng đô của người xê dịch Nguyễn Tuân, tôi không hiểu sao số mệnh lại vấthắn
vào đời tôi… 


Nếu có điểm giống giữa hắn và tôi, đại thể vì tôi là cái
mặt trái của Nguyễn Tuân và ngược lại. 


Chỗ Tuân rộng lượng dung tha thì
tôi ích kỷ. 


Chỗ Tuân ích kỷ thì tôi dung tha… 

Tôi vốn ăn thế nào, mặc
thế nào cũng được, trái lại Nguyễn Tuân ăn theo kiểu Tản Đà. 


Chỗ ở phải
là tổ của phượng hoàng và mặc thì phải như ông hoàng tây
(tr. 34)… 

Văn
chương của tôi Tuân chả thú gì, thơ tôi hắn không thuộc một câu nào. 


Còn
Vang bóng một thời của Tuân, đối với tôi chỉ là loại văn chương nửa ta, nửa tàu, lồm cồm, cầu kỳ  (tr. 35). 

Sau Cách mạng tôi vẫn là đứa chồm chồm Tuân vẫn là thằng ngất ngưởng (tr. 36).

Đọc những đoạn ấy, người đọc tiếc rẻ, hoài quá,giá Lưu Trọng Lư viết hẳn một cuốn hồi ký về đám bạn bè này thì hay biết bao nhiêu!



Đào Duy Anh ghi ở đầu cuốn Nhớ nghĩ chiều hôm: Những đêm mất ngủ vì tuổi già tôi muốn ôn lại quãng đường mình đã trải qua, để ghi lại những đắc thất của mình…”.

 So với trường hợp của Lưu Trọng Lư,  con người xã hội của tác giả hồi
ký được tô đậm hơn.

 Tuy vậy, những chi tiết bất ngờ, những thú nhận bột
phát, thường là cái chất muối mặn làm nên phong vị đậm đà của một cuốn
hồi ký thì ở Nhớ nghĩ chiều hôm còn thiếu.

 Riêng 100 trang cuối
của cuốn sách lại nghiêng hẳn về học thuật, tác giả đi vào trình bày
một số nhận thức của mình về Khổng học, Phật học, vai trò tri thức trước
vận mệnh của dân tộc.

 Đọc những đoạn này không phải là không thú vị
(nhất là chương 14 Đối thoại với một nhà đạo học hiện đại là Cao Xuân Huy) song chưa hẳn là cái thú vị của một cuốn hồi ký.

 Có điều Đào Duy Anh viết xong Nhớ nghĩ chiều hôm
từ cuối 1972, tức là 16 năm trước khi ông mất và 17 năm trước khi sách
được in.

Hoàn cảnh lúc bấy giờ (1972) chưa cho phép tác giả nhìn lại đời
mình một cách công bằng thấu đáo. Đến lúc cuộc sống đã mở ra cho ông
một viễn cảnh rộng rãi hơn để tự suy xét thì ông đã quá già, không thể
viết lại nữa.



Sau đây là một vài cuốn khác mới in đầu những năm chín mươi.

Hồi ký Trần Huy Liệu (560 trang). Cuốn sách được in ra hơn
hai chục năm sau khi tác giả qua đời. Nó không phải là một chỉnh thể
được viết theo một cách nhất quán, mà thực ra là một sưu tập gồm nhiều
đoạn hồi ký, tác giả viết ra trong những thời điểm khác nhau, với những
mục đích cũng khác nhau.

Song chỉ có thể, cũng đã rất quý, bởi tác giả
cuốn sách là một nhân vật của lịch sử Việt Nam hiện đại, trong cuộc đời
gần bảy chục năm, ông đã có dịp tham dự vào nhiều sự kiện lớn.

Hơn nữa,
ngòi bút nhà sử học ấy có lúc đồng thời là ngòi bút của nhà thơ.

Nhiều
sự kiện được ông kể lại sống động như những kỷ niệm riêng.

 Do quan niệm
đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, những người biên soạn hồi
ký Trần Huy Liệu còn làm thêm 24 trang sách dẫn (index), riêng việc này
cũng đã chứng tỏ tầm vóc mà cuốn sách vốn có.



Nhớ bạn của Nguyễn Lương Ngọc (170 trang). Tác giả là một
nhà nghiên cứu văn học, đồng thời là một nhà giáo lâu năm, từng trải
nhiều, giao du rộng. Cuốn sách giống như một bó hoa khiêm tốn. Nguyễn
Lương Ngọc tiện tay lượm lại từ ký ức của mình – những kỷ niệm đẹp về
các bạn bè đồng nghiệp – để trình ra với các thế hệ về sau.

Cát bụi chân ai của Tô Hoài (bản in đầu 296 trang) đặt
bên cạnh lối viết “hương hoa” của Nguyễn Lương Ngọc – “hương hoa” là chữ
đặt ở bìa 4 của cuốn Nhớ bạn – thì cách làm của Tô Hoài hầu
như hoàn toàn ngược lại.

Càng ngẫm nghĩ về những điều Tô Hoài đã viết,
người ta càng cảm thấy những điều ông biết về Nguyễn Tuân, và rộng hơn,
về nghề văn, còn lắm khía cạnh thú vị mà hy vọng ông sẽ trở lại trong
một dịp khác.



Sống giữa tình thương của Trần Thị Như Mân, tức bà Đào Duy
Anh (88 trang). Không khí dồn nén bao trùm tác phẩm, gợi cho người ta
cảm tưởng đây là những gì tác giả vốn đào sâu chôn chặt trong lòng, nay
mới có dịp chia sẻ.

 Lời kể từ tốn, cách viết điềm đạm, song không phải
vì thế mà người đọc không nhận ra những điều người viết không tiện nói,
không muốn nói ra trực tiếp. Cuốn sách là một gợi ý: bên cạnh các nhân
vật quan trọng thì những người thân của họ, cũng có thể là tác giả của
những hồi ký có khả năng hé mở những “chuyện riêng” của các nhân vật
lịch sử và do đó, có sức thuyết phục.



Hồi ký Nguyễn Hiến Lê (578 trang) và Hơn nửa đời hư
của Vương Hồng Sển (604 trang). Hai tác giả vốn có nhiều điểm chung:
cùng là những trí thức được nhiều người biết tiếng ở Sài Gòn trước 1975.
Cùng thích lối viết trực tiếp và khá kỹ lưỡng trong việc dựng lại quá
khứ. Song hai cuốn hồi ký lại có sắc thái hoàn toàn khác nhau.

Như xưa
nay vẫn vậy, Nguyễn Hiến Lê có phong thái của một nhà giáo, hồi ký của
ông vừa bao quát tình hình xã hội những năm ông sống, vừa thứ tự lớp
lang rành mạch, và có cái thân tình tự nhiên khi dẫn ra những chuyện tâm
tình mà người đọc hồi ký thường chờ đợi.

Trong cái vẻ riêng cẩn trọng
và thành thực, cuốn sách giống như những lời tâm sự cuối cùng mà tác giả
muốn để lại với người đời.



Về phần mình, Vương Hồng Sển trong Hơn nửa đời hư
hiện ra như một ông già Nam bộ bộc trực, có vẻ gặp đâu kể đấy, nhưng
dừng lại ở chỗ nào thì nói thật cặn kẽ, đôi khi càng những khía cạnh
người khác không tiện nói, cách nói của ông càng duyên dáng, hấp dẫn.

 Trong khi hồi ký Nguyễn Hiến Lê mực thước, mức độ và giữ được cái phải
chăng của bậc thức giả, thì hồi ký Vương Hồng Sển như một mạch ngầm tự
nhiên, bột phát, đúng là viết “không có plan” (dàn bài)”, dự định xong
là  “ngồi vào máy gõ lóc có cho đỡ sầu, mặc cho nó tuôn”.

Đặc biệt, cái
tên tập sách Vương Hồng Sển ngạo nghễ như một thách thức: Hỡi những ai thích bốc thơm
đời mình trong hồi ký, tôi đây cóc cần, những thứ đó, tôi biết rất rõ
sở dĩ bạn đọc mê tôi, vì tôi kể cả chuyện hư của đời mình chứ không làm
bộ làm dáng rằng mình cao xa so với họ


Cố nhiên không thể nói cuốn hồi ký nào cũng nên viết như Hơn nửa đời hư song phải nhận cách làm của Vương Hồng Sển là một thứ phá cách có cái lý riêng của nó, nó đáng được coi như một sự dũng cảm, để khiến cho hồi ký đạt tới độ tin cậy cần thiết.



Vài lời bàn thêm

a. Về mối quan hệ giữa hồi ký với các thể văn hư cấu

Có được những sáng tạo lớn bao quát thời gian, tổng kết lịch sử nhất
là khi sự sáng tạo ấy được đúc kết trong một thể văn xuôi lung linh –
như tiểu thuyết – thì ai mà chẳng ao ước.

Nhưng kinh nghiệm đời sống văn
học mấy chục năm nay cũng mách bảo với chúng ta rằng những sáng tạo
chân chính cần đến rất nhiều thể nghiệm, hơn nữa còn cần đến cái bệ đỡ
vững vàng của văn hoá.

Những điều ấy, không phải một sớm một chiều mà có
ngay được.

 Trong khi đó như nguời ta vẫn nói, với tư cách một sự sáng
tạo tuyệt vời của tạo hoá, luôn luôn biến thiên, đa dạng, kỳ ảo, đời
sống từng biết tới những tính cách lạ lùng, những số phận không bao giờ
lặp lại.

Phải chăng giữa hai thể hồi ký và tiểu thuyết, sự đặc cược của
xã hội vào hồi ký là thiết thực hơn dễ đạt hiệu quả hơn? Có được sự hỗ
trợ của các hồi ký, rồi ra sự sáng tạo của các nghệ sĩ sẽ hữu hiệu hơn,
và như thế sự xuất hiện ngày một nhiều các hồi ký tốt, là bước chuẩn bị
chắc chắn cho những tiểu thuyết chín đẹp trong tương lai.

b. Về tính chân thật, và những hấp dẫn của việc đọc và viết hồi ký

Không ai ấm đầu tới mức tuyên bố rằng những trang hồi ký mình viết ra
là bịa dặt, giả tạo.

Tính chân thật là yêu cầu thứ nhất đặt ra với một
cuốn hồi ký, tưởng như không chân thật thì nó không có lý do tồn tại.

 Song, nếu có dịp đọc hàng loạt hồi ký, cùng lúc với việc nhận ra rằng sự
thật là một cái gì muôn màu muôn vẻ, người ta vẫn không tránh khỏi cảm
tưởng cuốn này thật hơn, cuốn kia đắp điếm tô vẽ. Hoá ra chân thật là
một cái gì rất khó, không phải cứ muốn là được.

Vấn đề không chỉ ở tấm
lòng mà còn ở trình độ tự nhận thức của mỗi ngòi bút.

Sẽ là sai lầm nếu tưởng rằng viết hồi ký là chuyện dễ dàng. Để hiểu
đúng người đúng mình để đưa ra bức tranh chân dung chân thật, trong lòng
người viết phải trải qua một cuộc vật lộn. Song chính vì thế việc viết
hồi ký lại có cái sức quyến rũ của những sáng tạo chân chính và việc đọc
hồi ký không mấy khi là chuyện nhàm chán.





                                                                   Ba cách thức khác nhau 

                                                 để các nhà văn  cùng dẫn bạn đọc

                                                                              trở lại quá khứ



Mặc dù vẫn nhớ tới câu nói khinh bạc  Ehrenburgnhớ cho lắm chỉ tổ mệt ngườisong nhiều nhà văn ở ta hiện nay vẫn bằng cách này hay cách khác hướng ngòi bút của mình vào việcnhớ lại và suy nghĩ. Công việc của ba nhà văn Nam Bộ chúng tôi nói tới trong bài này là một ví dụ.



Sơn Nam

Gần đây, mỗi khi có dịp làm các bộ phim về đời sống xã hội ở các tỉnh
Nam Bộ trong thời cận hiện đại, các hãng phim nước ngoài thường vẫn mời
nhà văn Sơn Nam làm cố vấn về lịch sử và dân tộc học. Bởi tác giả những
Bến Nghé xưa, Hương rừng Cà Mau, Văn minh miệt vườn… là một nhà văn rất quan tâm đến phong tục. Trong ông luôn luôn có con mắt nhìn của nhà nghiên cứu.

Được gọi là bút ký, song cuốn sách mới nhất của Sơn Nam mang tên Một mảnh tình riêng
có những nét của một cuốn hồi ký hoặc tự truyện.

Có điều, đây là một
cuốn sách có bố cục rất thoải mái. Nhớ gì ghi nấy, tác giả để mặc cho
dòng liên tưởng của mình vận động, và người ta chỉ cảm thấy đuợc tiếp
xúc với một tác phẩm thống nhất do nơi giọng điệu của nó.

 Ở đây không
chỉ có những chuyện riêng tư có liên quan đến cuộc đời gần 70 năm làm
nghề và gần nửa thế kỷ cầm bút của Sơn Nam mà còn có rất nhiều chuyện
xưa tích cũ, liên quan đến đồng bằng Nam Bộ rộng lớn và trái tim của nó,
là thành phố Sài Gòn thân yêu của bao thế hệ người Việt.

Không quan trọng hoá, không coi thường hoặc đùa bỡn, Sơn Nam kể lại
mọi chuyện một cách nhẹ nhàng, từ tốn.

Từ chuyện hình thành một tên đất
tên làng ở mảnh đất cực nam của Tổ quốc, chuyện các thế hệ cha ông xưa
thường truyền về những ngày Pháp mới chiếm Nam Bộ…, tác giả nhanh chóng
bắt sang chuyện quê hương và gia đình, chuyện những ngày sau hiệp nghị
Geneve, từ chiến khu, bỡ ngỡ về Sài Gòn làm văn làm báo.

 Chưa hết! Nhiều
lúc, tác giả còn đả động đến những vấn đề lớn lao, nào đặc tính của
thành phố Sài Gòn là gì, văn  hoá Việt Nam ở các tỉnh Nam bộ ra sao,
hoặc những lời đồn đại và thực chất của một vài sự kiện cùng nhân vật
lịch sử.

Với người viết sách – mà có lẽ với tất cả chúng ta cũng vậy –
cuộc sống vô vàn biến hoá, nhiều chuyện động trời động biển, lại cũng
nhiều chuyện lặt vặt ngẫu nhiên, vậy mà cái nọ lẫn cái kia đều không sao
quên nổi!

 Nhất là, nếu ai để ý hẳn thấy, trong những điều Sơn Nam coi
là đáng nhớ, là làm cho cuộc sống của ông có thêm ý nghĩa, bao giờ cũng
có chỗ xứng đáng cho những cuốn sách, những trang báo, cũng là kiếp sống
đa đoan của những người trót nhận lấy việc cầm bút làm nghề nghiệp.

 Được ông nhắc nhở với nhiều trân trọng, không chỉ có những Nguyễn Du,
Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Đình Chiểu… xa xưa, mà còn những người đương thời,
Lý Văn Sâm, Nguyễn Ngu ý, Bình Nguyên Lộc… Thành thử, ngoài giá trị
khảo cứu, cuốn bút ký của Sơn Nam còn có bóng dáng một cuốn tự bạch về
nghề văn nữa.



Trang Thế Hy

Cũng như Sơn Nam, Trang Thế Hy sinh vào giữa những năm 20 (một người
1926 một người 1924), lại cũng là một mẫu người Nam Bộ từng trôi nổi qua
nhiều biến động của thời cuộc. Chỉ có điều khác là trong khi số sách
đứng tên Sơn Nam khá nhiều và cũng khá đa dạng, thì Trang Thế Hy viết
hơi ít, chỉ thỉnh thoảng ông mới cho in một tập truyện ngắn.

Song có lẽ
vì thế mà mặc dù được gọi là truyện, song chất hồi ký ở tác phẩm của
Trang Thế Hy vẫn khá sâu đậm.

Mỗi truyện được ông viết ra đều là một dịp
để tác giả trong khi kể lại một ít kinh nghiệm sống, đồng thời ngẫm
nghĩ thêm về lẽ đời, một cuộc đời rất nhiều đen bạc, song vẫn luôn luôn
có chút gì đó đáng để cho người ta sống.

Còn nhớ, sau khi đọc thiên truyện Con cá không biệt tăm (in trong Truyện ngắn Việt Nam 1945-1985) một người bạn trẻ đã nói đùa với Trang Thế Hy “Đó là loại truyện, viết xong, người ta có thể buông bút được”.

Nay thì trong Tiếng hát và tiếng khóc
người viết vẫn cứ lối viết “tổng kết cuộc đời” ấy mà tiếp tục. Tác phẩm
được xác định là truyện ngắn và hồi ức, song hầu như thiên truyện nào
in vào đây cũng mang đậm tính cách hồi ức.

Có truyện đưa người đọc trở
về những năm tác giả còn thơ ấu. Có mấy truyện xoay quanh ít kỷ niệm hồi
tác giả hoạt động ở Sài Gòn trước 1975. Đến cả những truyện viết về sự
việc mới xảy ra một hai năm gần đây, tác giả cũng biết mang lại cho nó
một sắc thái “muôn đời vẫn vậy”.

Nhân vật của Trang Thế Hy có khi là ông
già làm ruộng, chị bán thuốc lá, có khi là một thiếu phụ lỡ độ đường
hoặc một nghệ sĩ cải lương về già, nát rượu, khi say khi tỉnh.

 Song
người nào cũng có vẻ như đọc sách nhiều.

Thích suy ngẫm và lý lẽ.

 Nhạy
cảm trước vô vàn biểu hiện khác nhau của cái đẹp.

Và nói chung là hay
tìm tới những khái quát lớn về đời sống.

Nghĩa là người nào cũng hao hao
như tác giả!

 Nhưng cái đó không sao!

 Hiện lên sau các trang sách là một
nhà văn không bao giờ quên sứ mệnh của mình, lại muốn luôn luôn trò
chuyện với người đọc để nghe ngóng thêm và trải nghiệm thêm.

Về mặt bút
pháp, đọc Trang Thế Hy người ta bắt gặp một lối kể chuyện chân phương,
song chậm rãi, thích ngừng lại để lật xuôi lật ngược sự đời.

Cách viết
đó có thể không hợp với những ai thích bươn chải và đang mải chạy theo
cái đời sống chộn rộn trước mặt, nhưng với những người sẵn sàng đồng
tình với A. France “xem việc gợi lại kỷ niệm là một việc làm dịu ngọt” –
thì lại là một cách viết thích hợp.



Hoàng Văn Bổn

Tuy chỉ trẻ hơn Sơn Nam và Trang Thế Hy dăm tuổi nhưng Hoàng Văn Bổn
thuộc về một lớp nhà văn có số phận khác hẳn.

Sau khi tham gia kháng
chiến chống Pháp trong khi Trang Thế Hy, Sơn Nam tạm về Sài Gòn, thì
Hoàng Văn Bổn tập kết ra Bắc và ngòi bút từng viết nên Vỡ đất (giải thưởng Cửu Long Giang 1952), tại viết tiếp Mùa mưa, Trên mảnh đất này, Có những lớp người…
cùng là nhiều kịch bản phim khác.



 Sau những năm tháng hoạt động sôi nổi
với tư cách là một chiến sĩ cầm bút, hình như Hoàng Văn Bổn cảm thấy
nay là lúc có thể ngoái nhìn lại cả cuộc đời mình.

Năm 1993, ông đã có Vũ trụ (Nhân tình thế thái), một cuốn sách có tính cách ghép mảng, gồm nhiều mẩu hồi ức ráp lại. Năm 1994, ông lại cho in Một ánh sao đêm,
cuốn hồi ký trọn vẹn, ở đó tác giả kể lại nhiều kỷ niệm suốt từ ngày
còn là chiến sĩ tiểu đoàn 307 đến những ngày đầu của cuộc kháng chiến
lần thứ hai, ông cùng nhiều anh em viết văn làm báo đến với những binh
trạm trên đường 559. Thói quen của người viết tiểu thuyết quả đã giúp
nhiều cho ngòi bút hồi ký của Hoàng Văn Bổn.

Một ánh sao đêm
lối trình bày lại sự kiện mạch lạc, sáng rõ và bao quát được một thời
gian dài của đời sống văn nghệ, nhất là những năm từ 1975 về trước.



Đọc
cuốn hồi ký có thể có người bảo đây toàn là chuyện mới xảy ra gần đây
thôi, có gì mà phải “hồi cố” sớm thế!

 Song nếu nhớ rằng Hoàng Văn Bổn đã
có một cuộc đời cầm bút liên tục trên bốn chục năm người ta có thể nghĩ
khác. Lớp nhà văn chủ yếu trưởng thành từ sau 1945 những Vũ Cao,
Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Khải, Giang Nam, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng… là
một thế hệ cầm bút đặc biệt trong lịch sử văn học. Họ có những từng trải
riêng, kinh nghiệm và cách tồn tại riêng. Nay phần lớn họ đang ở trước
ngưỡng của của tuổi “thất thập cổ lai hy”. Ngoài các tác phẩm đã in,
những gì họ trực tiếp kể lại trong các hồi ký nhất định là đáng để tham khảo khi suy nghĩ về tương lai.



Còn hai bài ngắn nữa về hồi ký1990-2000, sẽ in trong phần tiếp