Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2015

Con người và xã hội Việt Nam qua truyện Tấm Cám


Người Việt có câu:



Bầu ơi thương lấy bí
cùng


Tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn.


Xưa nay mọi người vẫn
cho rằng câu ca dao này nói đến nhu cầu đùm bọc lẫn nhau giữa những người nghèo khó.
Thế nhưng đọc nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, thấy ông gợi ra ý khác. Ông Trường
cho câu này là lời kêu than của kẻ bị trị với người thống trị. Sống trong một
giàn đấy, tức cùng trên một địa bàn cư trú, trong một xã hội, nhưng là khác giống,
khác cấp độ, khác hẳn nhau về vị thế. Nên mới kêu rằng hãy thương lấy chúng tôi
với. Chứ giữa những người nghèo khó, làm gì có sự khác giống mà phải kêu gọi
vậy?


        
Tôi cũng học theo cách đó, thử nhìn khác đi một chút về truyện Tấm Cám.


Có một đề tài mà người mình nói đi nói lại với nhau, thế hệ nọ truyền lại cho thế hệ kia, và nay thì được đưa vào sách vở để dạy dỗ nhau, đó là niềm tự hào một chiều, niềm tự hào này đôi khi lại được tuyệt đối hóa tới mức quá đáng. Người Việt trong các truyện xưa chẳng hạn thường được miêu tả như là chịu khó
làm ăn và sống trong tình nghĩa gia đình làng xóm. Và người ta lấy Tấm ra để
làm ví dụ. Tấm tuy bé nhỏ nhưng là người trời sinh chăm chỉ nết na, ở với bà
lão thì quán xuyến việc nhà, được chọn làm hoàng hậu rồi mà đến ngày giỗ bố vẫn về
leo cây hái cau.


Tấm trái ngược hẳn với
Cám và mẹ Cám.


Trong cuộc kiếm sống khó
khăn, loại người như mẹ Cám nhìn các đồng loại của mình như kẻ thù,
thấy ai tìm được cái gì hơn mình, liền tìm cách hãm hại.


Do cách kiếm sống kiểu đó,
ở họ hình thành những phẩm chất bẩm sinh đáng sợ. Cả trẻ loại mới lớn
 nứt mắt  cho đến người lớn đều ranh vặt và dối trá. Người ta
 chỉ có thể hiểu được điều này nếu nhớ lại Cuội nhân vật trong một truyện
cổ tích cùng tên. Truyện Cuội cũng thuộc loại truyện lâu đời
nhất như Tấm Cám. Trong tâm thức người Việt, Cuội tự nhiên là
thế, không ai chê cười cả.


  Cám sẵn thói
tàn ác. Bà dì ghẻ không muốn cho Tấm đi hội nên đã trộn gạo vào thóc bắt Tấm
nhặt. Một sự hành hạ tinh vi.


Khi Tấm đã thành hoàng
hậu, về thăm nhà, bà lại  bảo Tấm trèo lên cây cau hái cau cúng bố, rồi
lén chặt cau để Tấm ngã chết tươi.


      Từ bấy trở đi, bao nhiêu
lần Tấm tìm cách tái sinh là bấy nhiêu lần mẹ Cám xui con tận diệt dấu
vết. Nào là làm thịt chim, nào là đốt khung cửi. Cách con người trị nhau ở đây
phải nói là rất dã man. Nhưng nếu không tự dối lòng, ta phải công nhận nó miêu
tả đúng cách quan hệ với nhau của người  phương Đông. 


      Có lần tôi đọc
một tài liệu viết việc tòa án Tiệp điều tra một vụ án mạng có liên quan tới
người Việt. Khi thấy nạn nhân bị chọc thủng mắt, họ kết luận hung thủ chắc chắn
phải là một người Việt khác, không thể là một người Tiệp được, vì hành vi quá
man rợ, không thể có trong thế giới văn minh. 


      Gần đây đọc bài Những
chuyện động trời về người Việt Nam ở Ba Lan
 lại càng thấy rõ điều đó.


 Tại sao lại có sự
miêu tả kỹ càng về mẹ con Cám như vậy?


      
 Khi kể lại cho nhau nghe Tấm Cám, người mình rất rạch
ròi. Trong đầu óc ông cha ta -- và đến lứa chúng ta bây giờ cũng vậy, người
Việt chỉ là Tấm thôi. Chứ còn Cám ấy ư, là người nước nào ấy, chứ không phải
người Việt. Cũng như ta hay hiểu ngẩm với nhau, trong lịch sử những Lê Long
Đĩnh, Trần Ích Tắc, thậm chí cả Gia Long, Tự Đức, Trương Vĩnh Ký Hoàng Cao
Khải… cũng không phải người Việt, khi nhận xét cái hay cái dở của người Việt
không ai tính đến họ.


Nay nếu từ bỏ cách xem
xét phiến diện đó, xem các nhân vật đều có ý nghĩa đại diện như nhau, thì phải
nhận Tấm Cám đã  đi khá xa trong việc khái quát tính cách dân tộc.


Bây giờ để trở lại với
nhân vật Tấm, tôi muốn bắt đầu bằng một người Việt khác, người Việt số một
trong tâm thức dân gian. Là nàng Kiều.


 Trong một báo cáo
của các nhà nghiên cứu nước ngoài tại hội nghị VN học 1998, tôi
 thấy họ nói là Truyện Kiều cũng được truyền  sang  Nhật,  tức có một variant tiếng
Nhật, nghĩa là bản dịch thoát, dịch theo kiểu làm biến dạng chút ít như người
Việt đã làm. 


 Lạ một điều là nhân vật Kiều trong tiếng Nhật lại có nghị
lực chứ không chỉ than khóc khi gặp nghịch cảnh, rồi bằng lòng với sự đầu hàng, dễ dàng chấp nhận số phận như Kiều ở Việt Nam.


      
 Về phương diện bất lực và lối phản ứng thụ động trước cuộc đời, Tấm rất gần Kiều. Động một tí là
giở trò than khóc để sau đó hoàn toàn trông mong vào sự cứu giúp của các thế
lực bên ngoài, tức cũng là trông vào vận may mà số phận run rủi cho gặp. Toát
lên từ cả câu chuyện ta thấy nếu cuối cùng Tấm có hạnh phúc thì phần lớn là nhờ ở hiền gặp lành chứ  không thể gọi nàng  là người biết lo liệu cho cuộc
đời mình.


      
  Cách nghĩ sống bằng cầu xin và ăn may không phải độc quyền của Tấm.


 Trong khi diễn đạt
những bước đường đời của con người -- cả trong sự lẩn tránh rủi ro lẫn truy cầu
hạnh phúc  các mẩu truyện dân gian còn cho thấy một nét tâm lý trên
của Tấm rất  phổ biến trong người Việt.


 Bằng chứng có thể
lấy ngay trong Tấm Cám. Hãy nhớ lại đoạn Tấm đánh rơi giày, vua cho
gọi mọi người đến thử. Có phải là một hai người nào đâu mà hầu như là tất cả
đàn bà con gái đi hội đều chen nhau đến để ướm chân vào giày,
người nào người
nấy tự nhủ nhỡ biết đâu chân mình vừa giày thì sao. Ảo tưởng đến thế là cùng!


Trở lên đã nói về
nét  man rợ trong nhân vật mẹ Cám. Oái oăm thay, bên cạnh chỗ khác mẹ con
Cám, ở chỗ này Tấm rất giống họ. Tấm không gây ra thù. Nhưng trong cách báo thù
Tấm cũng man rợ. Nào là xui Cám nhảy xuống hố để đổ nước sôi  cho chết.
Nào là chặt đầu Cám làm mắm gửi về cho mẹ.


Theo chỗ tôi đọc được thì cả nhà văn
Tô Hoài cũng không muốn chấp nhận cái chi tiết ghê rợn này. 


Trong 
một văn bản Tấm Cám do chính ngòi bút Tô Hoài viết, chi tiết cuối cùng bị
tước bỏ.


Riêng tôi thì tôi 
vẫn tin  chi tiết đó là cần vì nói đúng cái chất người của Tấm.


 Cái lý của tôi –
ta phải nhìn vào  sự thống nhất trong tính cách nhân vật.


Cái may của truyện Tấm
Cám
 còn lưu truyền trong dân gian là ở đó nhiều câu đối thoại được ghi
bằng lối nói có vần, khiến cho người kể trong thời hiện đại không thể  tự
ý xoay cau chuyện theo ý mình.


Cuộc đấu của Tấm và mẹ
con Cám diễn ra qua nhiều công đoạn. Khi Tấm trèo cau bị mẹ Cám chặt cau cho,
Cám được đưa vào thay; Tấm  hóa thành chim vàng anh thì bị Cám nghe mẹ bắt
làm thịt rồi đổ lông ra vườn. Chỗ lông chim liền mọc lên hai cây xoan đào, vua rất
thích ngồi dưới bóng cây hóng mát. Cám mang chuyện ấy lại về nhà mách mẹ.
Mẹ Cám bảo, cứ sai thợ chặt cây làm khung cửi.


Nhưng khi khung cửi đóng xong, Cám ngồi
vào dệt lúc nào cũng nghe từ khung cửi cất lên những lời đe dọa:



Cót ca cót két

Lấy tranh chồng chị.


Chị khoét mắt ra.





Từ đây đến chỗ xui Cám ngồi dưới hố để dội nước sôi cho Cám chết và làm mắm gửi mẹ Cám là chuyện hoàn toàn hợp lô gích.


Có bạn sẽ bảo phải làm
thế mới trừ tiệt được cái ác trong xã hội. Nhưng cũng là ảo tưởng mà thôi, cái
ác trong xã hội Việt chưa bao giờ cạn kiệt và như chúng ta thấy càng sang thời
hiện đại, nó càng bùng phát.


    
  
Với tư cách hậu thế, những
người đọc hiện đại chúng ta không thể tùy ý kể lại chuyện xưa theo ý mình.
 Chẳng những thế nhìn thẳng vào hoàn cảnh sẽ thấy nay là lúc những vấn đề
của người xưa cũng đang ám ảnh  chúng ta. Ví dụ không xa: trường hợp cái ác trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp. Nhiều người mới đầu rất ghét về sau vẫn  say mê văn ông – và
đây có lẽ là trường hợp duy nhất trong văn học sau 1945, một người viết văn
vượt thoát khỏi sự thù ghét của dư luận chính thống. Hóa ra thứ văn còn chia ra được thành chính thống và phi chính thống chưa là gì cả. Chỉ có văn hay và văn không hay. Bài học của Nguyễn Huy Thiệp là vậy.


       Trở lại câu chuyện Tấm Cám đang bàn. Tôi ngờ rằng  nếu chỉ
miêu tả cô Tấm hiền hậu thôi, thì nhân vật loại này sẽ chết yểu ngay từ đầu. Sức sống của Tấm là ở chỗ trong đó còn tiềm ẩn những chi tiết mà đến nay  mới thấy rõ.Trong cuộc sống của người Việt, cái ác có mặt khắp nơi. Trước khi bàn
chuyện vượt qua cái ác thế nào, sự ghi nhận đầy đủ nó là cần thiết. “Khi
cái ác được viết ra, tức là có điều kiện để đẩy lùi nó. Mỗi lần nghệ thuật
chiến thắng là một lần cái thiện chiến thắng.
” Đây vốn là một câu tôi đã
viết trong bài Khuôn mặt nhàu nát—tưởng tượng về Nguyễn Huy Thiệp,
 và đưa vào sách Những kiếp hoa dại (1993) nay lại muốn dẫn ra ở đây  mong được bạn đọc chấp nhận.  









MẤY
NÉT VỀ XÃ HỘI VIỆT TRONG TẤM CÁM


 Con người đã vậy,
bây giờ nói về xã hội.


Xã hội trong Tấm
Cám
 có thể quy vào một  đặc điểm chính -- là rất hoang dã.
Con người còn trong tình trạng tư duy hái lượm, nhặt nhạnh ở thiên nhiên cái gì
thì có cái đó. Trong lời dì ghẻ dặn Tấm có câu văn vần “Chăn trâu thì chăn
đồng xa—Chớ chăn đồng nhà làng bắt mất trâu
”. Rõ là một xã hội trong đó con
người sống thu mình trong lũy tre xanh, ở trong làng thì tạm thời còn có kỷ
cương, chứ ra khỏi làng tha hồ làm bậy. Và sự xui nhau trốn tránh các loại lệ
làng đã là phổ biến. Nên chú ý trong câu văn vần vừa dẫn, chữ làng là dành để chỉ nhà chức trách, người có quyền lực. Họ cũng người làng đấy. Có khi còn do dân chúng bầu ra. Nhưng họ không hề tổ chức cho dân chúng làm ăn mà chỉ nhăm nhăm trừng phạt. Và phạt đến mức bắt hết cả trâu, lấy đi cái kế sinh nhai của người ta thì quá kẻ cướp rồi còn gì.


Ước mơ tận cùng
của  dân đen trong cá làng xóm là có triều chính có vua. Nhưng triều chính
ấy ở cách làng mấy bước chân,  nên dù tha hồ tưởng tượng người ta 
cũng chỉ thấy nó chẳng khác làng quê. Tôi không khỏi thích thú  mỗi khi
nhớ lại mấy câu văn vần:   


Phơi áo chồng tao


Thì phơi bằng sào


Chớ phơi bờ rào


Rách áo chồng tao.


Đấy là khi Cám đã thay
vào vị trí hoàng hậu của Tấm, vào một ngày Cám giặt áo nhà vua thì bị Tấm trong
thân xác chim vàng anh bay đến mai mỉa vậy.


Vợ vua gì mà đoảng đến
độ phơi cả áo vua lên hàng rào? Cung điện gì mà áo vua ở mức lý tưởng nhất cũng
chỉ phơi bằng sào? Đó thật ra chỉ là nơi ở của thủ lĩnh làng xã, chúng ta gọi
là hoàng cung cho sang trọng.  Các danh xưng  của quốc gia là do đi
mượn, các thứ cung điện, triều chính… chỉ là một thứ ấu trùng. Trình độ tổ chức
của xã hội ấy quá thấp.


Có thể tin được điều này
nếu đọc lại các bộ sử cổ mà trước tiên là bộ Đại Việt sử ký toàn thư.
Nhờ học được người Trung Hoa nên ông cha ta có thể  tạo ra một sinh hoạt
triều chính nối tiếp, nhưng sinh hoạt đó rất thô sơ.  Đọc sử đoạn ghi về
thời Trần có khi  thấy mấy vị hoàng tử tranh nhau cả cái áo, ông nọ bảo
ông kia rằng ngôi vua tao còn nhường cho mày, sao cái áo lại còn đòi. Cũng đời
Trần có chuyện vua ra ngoài thành chơi bị cướp mất cả ấn tín. Hoặc thời Lý đâu
có lệnh là các quan vào chầu không được nhổ quết trầu ra cung đình.


Khi viết những dòng này,
tôi hiện không giữ bên mình  những ghi chép từ  ĐVSKTT, nên
 chỉ ang áng nhớ như trên, dịp khác sẽ dẫn số trang số dòng  chính
xác. 


Nhưng qua mạng tôi có đọc được và sao chép lại một văn bản quý kể về Lê Hoàn, xin
“dán” lại một đoạn; mọi ý trong đoạn văn được giữ nguyên, tôi chỉ làm giãn các ý ra bằng cách liên tục xuống dòng, giúp các
bạn dễ đọc.





Đây là hình ảnh Lê Hoàn
dưới con mắt viên sứ nhà Tống:


“Cuối mùa thu năm ngoái,
đến cõi Giao Châu, Lê Hoàn sai Nha nội Đô chỉ huy sứ là bọn Đinh Thừa Chính đem
9 chiếc thuyền và 300 quân đến Thái bình quán  để đón.


 Từ cửa biển đi vào
biển lớn, lặn lội sóng gió, trải nhiều sự nguy hiểm. Quá nửa tháng đến sông
Bạch Đằng, đi tắt theo một nhánh hải lưu, cứ theo nước thủy triều mà đi.


Phàm những bến đỗ ngụ
lại có 3 gian nhà tranh, có vẻ mới được sửa sang lại, gọi là ‘quán dịch’.


 Đi đến Trường
Châu, gần bản quốc, Lê Hoàn phô trương khoác lác, dốc hết chiến thuyền ra, gọi
là ‘diễu quân’.


Từ đấy rong thuyền suốt
đêm đi đến bờ biển, cách Giao Châu độ 15 dặm có một trạm nghỉ chân 5 gian
lợp tranh đề ‘Mao kính dịch’. Cách thành 100 dặm khua gia súc của dân ra gọi là
‘quan ngưu’, số gia súc chưa đến một ngàn, nhưng lại nói khoe là 10 vạn. Lại
đốc suất dân ở chung với quân lính, mặc áo tạp sắc, chèo thuyền đánh trống reo
hò. Núi sát bên thành hư trương cờ trắng, cho đó là bày thế trận.


 Được một lát đoàn
hộ vệ rước Lê Hoàn đến, mở lễ giao nghênh .


Lê Hoàn ghìm ngựa
nghiêng người, hỏi thăm Hoàng đế xong, cầm cương đi cùng hàng, lúc ấy lấy trầu
cau ra mời, ngồi trên mình ngựa mà ăn, đấy là phong tục mang hậu ý đãi khách.


Trong thành không có nhà
dân, chỉ có vài trăm khu nhà tre lợp gianh, gọi là quân doanh. Phủ thự trũng
hẹp, trên cửa phủ đề ‘Minh đức môn’.


Hoàn xấu người chột mắt,
tự nói rằng năm gần đây vừa mới tiếp chiến với man khấu, rơi từ trên ngựa xuống
nên chân bị thương, nhận chiếu nhưng không lạy.


Sau khi nhận dụ chỉ thì
rải chiếu mở yến tiệc. 


Lại ra sát mép nước,
diễn trò mua vui cho khách.


Lê Hoàn đi chân đất cầm
gậy tre lội nước xâm cá. Mỗi khi trúng một con thì tả hữu hai bên đều hò reo
nhảy múa.


Phàm khi yến hội, những
người vào dự tiệc đều phải cởi đai áo, mũ mão.


Hoàn thường mặc áo hoa
văn sặc sỡ hoặc áo màu đỏ, mũ thì lấy trân châu làm trang sức, có khi tự mình
hát ‘Khuyến tửu ca’ (khúc ca mời rượu), không một ai có thể hiểu lời của bài
hát.


Thường sai bọn hơn chục
người khiêng một con rắn dài vài trượng đến tặng sứ quán, còn nói : ‘Nếu có thể
ăn được thì sẽ làm thịt nó bày cỗ dâng lên’.


 Lại đóng cũi hai
con hổ đem đến tặng, nói để tùy ý quan sát. [Chúng thần] đều từ chối không
nhận.


Quân lính có 3000 tên,
tất cả đều thích trên trán dòng chữ ‘thiên tử quân’, lương thực thì có lúa đủ
dùng hàng ngày, cho vào giã rồi mới ăn. Binh khí thì có cung nỏ, khiên gỗ, thoa
thương, trúc thương, [binh khí] rất yếu không thể dùng được.


Hoàn tính tình thô lược
tàn nhẫn, kẻ thân cận đều là bọn tiểu nhân.


Cho ở bên cạnh một bọn
50 tên hoạn quan tâm phúc.


Thích uống rượu nô đùa,
lấy chỉ lệnh làm vui, phàm bọn thuộc quan nào giỏi việc thì cất nhắc thân cận,
bọn thuộc hạ xung quanh nếu có lỗi nhỏ cũng giết ngay, hoặc nếu không cũng cho
đánh roi từ 100 đến 200 cái.


 Đám phụ tá nếu có
chút gì không vừa ý cũng sẽ phạt trượng từ 30 đến 50 cái, giáng truất làm môn
lại, khi nào hết giận lại gọi về cho khôi phục chức cũ.


Có một cái tháp gỗ, chế
tác thô lậu chất phác, Hoàn mời [bọn chúng thần] lên du lãm
 . Đất nơi ấy không có hàn khí,
tháng 11 còn mặc áo kép phất quạt
“.


      Đọc đoạn văn này tôi càng thấy tin  ở cách hiểu của mình về xã hội người
Việt trong  Tấm Cám như đã trình bày ở trên.


      Có bạn sẽ hỏi, đây là do người Trung quốc viết làm sao tin được. Trời ơi, làm sao mà người ta có thể bịa ra những chi tiết cụ thể như trên đã đọc!

      Những người  dịch văn bản đó ra tiếng Việt đều là người  có thiện chí.  

      Tài
liệu này tôi chép được từ trang web của nhà nghiên cứu Hán học Quách Hiền, ở
địa chỉ  quachhien.blogspot.com/2010_09_01_archive.html


     Nhưng trước đó tôi đã đọc được nó trong loạt bài khảo về sử của Nguyễn Văn Tố in trên tạp chí Tri tân ra trước 1945. 

    Ứng Hoè
Nguyễn Văn Tố là một trong bốn nhân vật lừng lẫy một thời Quỳnh Vĩnh Tố
Tốn
. Là nhân viên của Viện Viẽn đông bác cổ, ông đã làm cái công việc
mở lại nhiều trang lưu trữ. Bản  trên Tri tân sau này đã được in lại trong
cuốn sách  Đại Nam dật sử (sử ta so với sử Tàu). Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam xuất bản
, H. 1997, nhưng do cả cuốn có lẽ không phải vị các
nhà sử học đương thời nên không ai nhắc tới nó cả, và hình như bạn Quách Hiền
cũng không biết (?).


Tấm Cám vốn
quá quen thuộc với mỗi người Việt bình thường. Điều cuối cùng tôi muốn nhấn
mạnh là  cho đến thế kỷ XX, chúng ta chỉ dừng lại ở cách nhìn nhận một chiều
về  thiên truyện thuộc dạng tối cổ này, và cứ đinh ninh rằng người Việt
hiện lên trong đó là rất đáng tự hào, xã hội trong đó là muôn ngàn tốt
đẹp, không thấy nó còn chứa chất rất nhiều nội dung mà chỉ trong hoàn cảnh của
xã hội hiện đại ta mới có thể soi dọi khám phá.




Phụ lục


Tháng 10-2012, do sự khởi xướng của Vietnamnet, cộng đồng
mạng từng có cuộc trao đổi sôi nổi quanh  một bài văn của một nữ sinh Hà
Nội có liên hệ tới truyện Tấm Cám. Chính tôi cũng lấy cảm hứng từ cuộc trao đổi
này để viết  nên những dòng suy nghĩ trên đây các bạn vừa đọc.


Để các bạn khỏi mất công, tôi xin đưa vào Phụ lục văn bản nói trên.




 Bài văn điểm 3 của nữ
sinh nhập vai Cám kể chuyện Tấm


 - - -    Với đề bài "hãy nhập vai nhân vật Cám, kể lại chuyện
cổ tích Tấm Cám", một nữ sinh THPT ở Hà Nội đã có bài viết "đặc sắc".







Tôi là Cám, tôi sống với mẹ tôi và con của dượng tôi vì bố nó chết
lâu rồi nên mẹ con tôi nuôi nó. Nhưng tôi cũng không ưa nó lắm vì nó
lúc nào cũng ra vẻ làm chị. Hàng ngày nó cũng khá chăm chỉ vì
việc nhà, tôi thấy cũng cỏn con: cho lợn ăn, chăn trâu, nấu cơm, giặt
quần áo… Tôi thấy ít việc đó nó làm hợp hơn tôi vì tôi còn bận
chọn vải may quần áo và đi làm tóc tai. Tôi đang tuổi đôi mươi mà!


Có hôm mẹ tôi giao cho
hai đứa công việc, mỗi đứa một giỏ để đi bắt đầy giỏ tôm cua. Đứa
nào nhanh chân thì được cái yếm đỏ mẹ tôi mới mua đẹp mê hồn. Nhưng
tôi thì có biết lội ao hồ bao giờ, bẩn hết quần áo mất. Con Tấm
thì cứ tìm tìm mò mò đến bao giờ mới xong? Mình cứ đi hái hoa bắt
bướm tí đã rồi về bắt tôm cua sau. Chiều khi tôi ra thì đã muộn rồi,
thôi thì lừa con ngu kia một phen vậy: 


Chị Tấm ơi chị Tấm

Đầu chị bị lấm

Chị ra ruộng sâu mà gội đầu, không về mẹ mắng đó.




Haha, nó đã tin lời
mình, mình phải nhanh tay đổ hết tôm cua tép giỏ nó sang giỏ của
mình mới được. Về nhà được lấy yếm đỏ, và tôi đã có cái yếm
đỏ. 


Một hôm nọ, tôi thấy con
Cám ít ăn, hay để giành một bát cơm của mình. Tôi với mẹ mới rình
xem con ranh đang làm gì. Tôi và mẹ đã thấy nó gọi là:


Bống bống bang bang

Bống ăn cơm vàng

Cơm bạc nhà ta

Chớ ăn cơm hẩm

Cháo hoa nhà người


thì có con cá bống
bé lòi lên. Tôi và mẹ tính thịt nó làm bữa bống kho. Hôm sau tôi và
mẹ lừa nó đi chăn trâu xa không thì người ta thu trâu. Rồi tôi và mẹ
tôi bắt con cá bống lên ăn thả ruột lại. Giờ nó hết người làm bạn
nhé! Mình phải giấu xương ở xó bếp không nó biết với được. 


Sắp đến vũ hội, mẹ và tôi chuẩn bị
quần áo giầy dép mới cho tôi thật đẹp để kiếm chồng. Hôm đó tôi và
mẹ chuẩn bị đi, con Tấm cũng đòi đi. Tôi tức quá, tôi suy mẹ đổ hết thóc gạo vào nhau cho nó
ngồi mà sàng mà lọc. Haha, sáng mai cũng chưa xong đâu, rách rưới còn
đòi theo quý tộc hahaha… 


Đang chơi hội vui vua ban lệnh thử
giày, ai đi vừa là vợ vua. Mẹ và tôi cùng thử nhưng giầy con nào mà
bé thế, bố tao cũng không ních vào được. Lựa đằng này đằng kia đau
cả chân, bực cả mình đành thôi. Rồi có một con đến thử rất giống
con Tấm nhưng đẹp hơn, nó chỉ gần bằng tao thôi sao lại vừa giầy nhỉ.
Bực quá! Gọi nó thì đúng nó rồi. Vua đưa nó về tổ chức đám cưới
luôn mới sợ. Con này là con ôsin mà, vua mù rồi.

Đến ngày giỗ bố nó cũng biết
đường vác mặt mà về. Bây giờ oai như cóc rồi, bà sẽ cho mày một
phen.


Độc giả Linh Ngân (giới thiệu)






Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

Mối quan hệ giữa kiến thức và nhân cách ở người trí thức Việt

Nguyên là bài  Từ kiến thức đến nhân cách, in lần đầu trên tạp chí Tia sáng, 2000 đã in trong tập phiếm luận của VTN Nhân nào quả ấy, 2002 mới đây 20-10-2015 được đưa lại trên mạng Chúng ta.






 Khi chuẩn bị đưa trên blog cá nhân lần này, 
chúng tôi đặt lại đề  bài  để làm rõ  ý chính
 và phân đoạn lại, đặt lại các đầu đề nhỏ
 để bạn đọc dễ theo dõi

Tạp Chí Tia sáng số ra
01/2000, có đăng bài viết của Bửu Ý nhan đề “Trí thức anh là ai?”

 Đây là
một câu hỏi lớn, cần được nhiều người tham gia bàn bạc.

Dưới đây, chúng
tôi chỉ xin lưu ý một khía cạnh .Sự thăng trầm của hai chữ trí thức 


Hà Nội mấy chục năm trước có những người vốn dòng dõi quý tộc hẳn hoi,
song lại thường xấu hổ với dòng dõi của mình hễ ai vô ý nói xa nói gần
rằng thời xưa ông tổ họ hoặc gần hơn, cha anh họ đã từng giữ chức nọ,
chức kia, họ thường sầm ngay mặt lại, khó chịu như bị xúc phạm.

Chỉ
khoảng chục năm nay, người ta mới bắt đầu làm ngược lại. Tức là công
khai chấp nhận giá trị dòng dõi, thậm chí sẵn sàng khoe khoang là họ nhà
mình đã từng có người làm đến thượng thư, tổng đốc...

Đối với hai
chữ trí thức cũng có tình trạng tương tự.

Hồi trước không ít người , dù
hàng ngày lao động trí óc hẳn hoi, song rất ngại khi thấy mình được
liệt vào phần tử trí thức.

Người ta cứ muốn lẫn đi giữa mọi người bình
thường, và sẽ rất vui lòng nếu được gọi chung bằng mấy chữ: cán bộ.

Sự
hãnh diện được là trí thức chỉ vừa đến trong khoảng một hai chục năm qua
(ở đây, tôi chỉ nói trong phạm vi tâm thức dân gian, chứ trong các tài
liệu chính thức, hai chữ trí thức được xác định ra sao, lại là chuyện
khác!).


Trí thức là đảo ngược của lưu manh

Lúc coi thường, lúc xem trọng là vậy, nhưng không phải ngay lập tức người ta đã có cách hiểu đúng với các danh từ được sử dụng.

Từ
điển Hoàng Phê ghi: Trí thức là những người "chuyên làm việc lao động
trí óc và có tri thức chuyên môn cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp của
mình
”.

Đây cũng là cách giải thích bắt gặp ở nhiều từ điển khác
và phù hợp với cách hiểu thông thường của nhiều người.

Ở chỗ này, có thể
có một sự liên hệ: trí thức là đảo ngược của lưu manh.
Thường nhiều người chỉ hiểu hai chữ lưu manh và vô
nghề nghiệp, là ăn cắp, ăn trộm...

Song có lẽ nên nói đầy đủ hơn: lưu
manh là cả một lẽ sống tùy tiện, bất chấp chuẩn mực quy tắc đạo lý.

Với
tâm lý lưu manh, người ta có thể làm bất cứ việc gì miễn là có lợi cho
bản thân. Quay trở lại với khái niệm trí thức thì phải nói trí thức nói ở đây không phải
là trình độ kiến thức cao (ví dụ: từ đại học trở lên) mà là phẩm cách
con người.

Từ nghĩa gốc trong trí thức đã bao gồm nhân cách

 Một trí thức chân chính luôn luôn bị ràng buộc bởi những điều
mà họ tin tưởng.

Với họ, cái chân, cái thiện và cả cái mỹ nữa - quan
trọng hơn cái lợi.

 Lẽ tự nhiên dù vẫn là những con người cụ thể có cá
tính riêng, song người trí thức không bao giờ là kẻ tham bạo, lừa gạt,
lười biếng , hiếu danh, tàn nhẫn... Sự khiêm nhường của họ bắt nguồn từ
những hiểu biết sâu xa về mối quan hệ cá nhân và xã hội, họ nhìn những
người ít học một cách độ lượng và bằng lòng với phần đóng góp thiết thực
của mình trong việc thúc đẩy xã hội tiến tới. Hồi cuối thế kỷ XIX, nhà
văn Nga Tsékhov đã nói: trí thức, đó chính là lương tâm của nhân dân.



Quá trình chuyển hóa từ kiến thức đến nhân cách đó đã diễn ra thế nào?

Đằng
sau một kiến thức cụ thể, thường khi ẩn chứa một nội dung nhân văn nhất
định.

Một phát minh trong kỹ thuật, một định lý mới tìm ra trong toán
lý, hay một quy luật ngày càng được kiểm tra là chính xác trong khoa học
xã hội... mang sẵn trong lòng nó một quan niệm về tính hợp lý của đời
sống hoặc là tiền đề tốt để cho người ta có thêm ý niệm đầy đủ về cái
đẹp, cái thiện.


Ở những người lao động trí óc có đời sống tinh thần lành
mạnh, quá trình đi sâu vào lĩnh vực chuyên môn mà họ theo đuổi đồng
thời cũng là quá trình để bức tranh thế giới trong họ thêm hoàn chỉnh và
mỗi ngày một ít, cách sống, cách nghĩ, cách ứng xử với đồng loại ở họ
cũng theo đó mà hình thành nên những nền nếp tốt đẹp.

Tưởng như kiến
thức, bên cạnh vai trò cụ thể trong công việc đã được thăng hoa để tinh
lọc lại làm nên nhân cách, và đây mới là chỗ phân biệt giữa "người đọc
nhiều biết nhiều” với các trí thức thực thụ.

Nay là thời mà  ngoại lệ trở nên phổ biến 
Đặc điểm của tình hình trí thức VN hôm nay là  đang tồn tại nhiều  ngoại lệ.
 Trong thời buổi xã hội có nhiều biến động, đang tồn tại loại người tuy có tiếng là trình độ kiến thức bậc
cao, song vẫn không phải là trí thức, tệ hơn nữa một số trong họ sống
như lưu manh, hay nói đúng hơn vẫn để cho tinh thần lưu manh chi phối
cách sống (nịnh trên lừa dưới, bon chen, cầu lợi, ham hưởng thụ, độc ác
tàn tệ với đồng nghiệp...).



Tại sao xảy ra tình trạng như vậy? Ở đây có thể có hai giả thiết:

Trường
hợp thứ nhất
, khá đơn giản: có người nghe rất oai nhưng sự thực kiến
thức là kiến thức giả, chắp vá nhặt nhạnh, đương sự đã đạt tới bằng cấp
qua con đường tà đạo, một số trong họ chẳng qua chỉ là những kẻ lợi
khẩu, dễ lòe người chứ thực ra bên trong trống rỗng.



Lại có trường
hợp thứ hai
, hơi khó lý giải hơn một chút. Ở một số người, kiến thức là
thứ thiệt hẳn hoi, họ giỏi giang, họ sâu sắc song nhìn vào cách sống,
vẫn không phải trí thức.

Tại sao?

Trên nguyên tắc, có học hành là có xảy
ra sự thẩm thấu của kiến thức vào con người để biến thành nhân cách.
Nhưng trong thực tế đấy không phải là quá trình xảy ra đồng đều nhất
loạt ai cũng như ai. Chẳng hạn, có những người vì nhiều nguyên nhân khác
nhau (do di truyền, do giáo dục, hoặc do những bất hạnh gặp phải lúc
nhỏ) mà thói gian manh vụ lợi, sự lừa bịp, lối sống hiện đại chung
quanh… đã ăn vào máu, dù có đọc nhiều hiểu biết rộng đến đâu, vẫn cứ
đường cũ mà đi, niềm tin cũ mà sống.

Cái phần tinh hoa của kiến thức khi
gặp một tâm hồn trơ lỳ thoái hóa... thì dừng lại, không đủ sức lay
chuyển hạt nhân tính cách đã ổn định bên trong. Loại người này đặc biệt
lợi hại.

Họ năng động, họ hấp dẫn, họ có khả năng lôi kéo thuyết phục
chung quanh. Nói chung là họ làm được nhiều việc.

Chỉ hiềm một nỗi, họ
chỉ lo đắp điếm cho gia đình, hoặc tạo ra cái tiếng tăm cái uy thế ghê
gớm cho bản thân cũng như phục vụ cho những mục đích tầm thường. Còn như
bảo rằng họ có ích cho nhân quần xã hội thì vẫn không phải.



Vấn đề đặc thù số một  của giới trí thức Việt Nam

Các vấn đề đặt ra chung quanh khái niệm người trí thúc vốn khá da dạng.


một số nước, người ta nhấn mạnh lương tâm trách nhiệm con người trí thức
trước xã hội.

Ở một số nước khác, người ta thích bàn đến mối quan hệ
giữa tự do và phục vụ, dấn thân và "xây tháp ngà" để làm khoa học.

Riêng
ở Việt Nam, theo ý chúng tôi, trong nhiều trường hợp, câu chuyện nhân
cách vẫn nổi lên rõ rệt hơn cả.

Một khi người ta còn chưa trở thành
chính cái mẫu người ta muốn theo, thì bàn thêm những việc khác làm gì
cho mệt?!




Thứ Hai, 19 tháng 10, 2015

Chữ đạo văn kia cũng có ba bảy đường


Một vài khía cạnh tế nhị cần cân nhắc


 khi xem xét hiện tượng đạo văn             











      Trong Nhà văn hiện đại  bản in 1989  của NXB Khoa học xã hội mà tôi đang có trong tay, Vũ Ngọc Phan viết về Vũ Bằng tới 17 trang thì trong đó hơn 4 trang dành để đối chiếu một truyện ngắn của Vũ Bằng là  Em ơi đừng tuyệt vọng (in trong tập Để cho em khỏi khổ) với một thiên truyện Những đêm trắng  của Dostoievski qua đó chứng minh tác giả Việt Nam đã lấy của người làm của mình. Cái sự phỏng theo gần đúng nguyên văn nói ở đây theo Vũ Ngọc Phan nó có hại trước nhất cho tác giả; thứ nữa làm cho người ta thêm khinh nhường thể văn tiểu thuyết xem nó như một trò giải trí.

   Tìm lại tạp chí Tri tân người ta cũng đọc ra bài của Kiều Thanh Quế  nhắc vài chuyện không hay liên quan tới Lan Khai và một tác phẩm của nhà văn Stefan Zweig.   


    Mặc dầu vậy cả Vũ Bằng và Lan Khai vẫn là những tên tuổi không thể bỏ qua, mỗi khi cần nói tới lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX.


    Thành thử dù dưới đây trong khi tiếp tục câu chuyện gọi là đạo văn  này còn có thể dẫn ra một vài vụ việc khác kể cả những trường hợp mới xảy ra hôm nay, song điều cần nói ngay ở đây: chúng ta không nên hoảng hốt. Các giá trị vẫn đâu có đấy rõ ràng. Khi mọi chuyện không thể một sớm một chiều kết thúc ngay  được thì cách tốt nhất là  tìm cách lý giải nó và trước tiên tìm cách  chung sống với nó.





Những ranh giới rất mong manh


và những trường hợp trắng án


   Xuân Diệu có lần đã kể từ một câu thơ Pháp ông đã làm ra câu thơ rất hay của riêng mình Cành biếc run run chân ý nhi  ra sao.


   Cũng quanh câu chuyện học người  để làm giàu cho mình này trong những lần trò chuyện riêng với ông, bọn tôi còn bắt chợt  được cái ý mà tuy không nói ra nhưng nó toát lên từ cái nhìn từ ánh mắt nơi ông:


-- Các cậu không biết  học hỏi thì chỉ có thiệt.


--….


-- Người tài là người ăn cắp mà phi tang, thậm chí người ta trông thấy mà vẫn phải chịu.


  Cũng liên quan tới Xuân Diệu, mấy năm trước 1975, còn có một trường hợp nữa, bài Ngọc trai trong vịnh Cô Tô. Nguyên đây là một cái tứ do một nhà thơ khác (tôi nhớ mang máng hình như là Xuân Tửu?)  -- phát hiện, Xuân Diệu thấy hay quá và “cướp luôn”. Nhưng vì bài thơ ông làm hơn hẳn bài thơ của nhà thơ kia, nên không ai thấy chướng, ngược lại đều công nhận đó là cái quyền chính đáng của ông.


     Ngoại trừ những trường hợp trắng trợn mấy chữ đạo văn phải rất cân nhắc trước khi sử dụng là vì vậy. Chúng ta hàng ngày sống suy nghĩ ăn uống đọc sách viết văn giữa đám đông các đồng nghiệp vừa cho vừa nhận vừa thẩm thấu của đời vừa trả lại cho đời, chắc chẳng ai dám nói từ sáng đến chiều mình chỉ nói những câu mà không ai từng nói viết ra những câu mà không ai có thể viết.


     Thành thử cái hiện tượng “chí lớn gặp nhau”  không phải là lời cãi lấy được mà trong nhiều trường hợp vẫn là một sự thực.


     Đến khi một mình một bóng trước trang giấy (bây giờ là cái máy tính) thì lại dễ có cảm tưởng của một ông tướng cầm quân khi ra trận có bao nhiêu binh mã phải sử dụng hết, thường thì mạch văn kéo đi, người trong cuộc mải miết hướng tới cái đích cuối cùng, mà không còn nhớ ý này ý kia  đã hình thành trong đầu óc từ lúc nào, mình đã nghĩ ra nó đầu tiên hay là chộp được từ một người khác.


      Đi vào cụ thể hơn có thể coi là trắng án trong mấy trường hợp:


--một là người đi sau lấy của người khác nhưng đó không phải là những câu những bài  nguyên vẹn 100% mà có biến báo có thay đổi;


--  và hai  là cái sự gọi là lấy của người kia mang lại hiệu quả cao.


      Khi tôi say sưa với một ý của người khác và tìm cách đưa nó vào bài viết của mình (nói cho sang gọi là tìm thấy ở đó một sự kích thích),  mặt khác nó được lắp ghép vào bài của tôi một cách tự nhiên như là chính tôi đã nghĩ ra vậy (không phải là cái áo vải vá mụn gấm mà là áo gấm vá mụn gấm, hơn nữa vá một cách đầy tài năng tới mức không ai biết là vá) –  tôi tin rằng không ai nghĩ tới chuyện gọi tôi là “đạo“ cả.


     Không phải là thiên hạ dễ tính hoặc cánh hẩu bỏ qua cho nhau đâu.        Trong trường hợp này mọi người như cùng công nhận cái chân lý mà văn hào Đức B. Brecht phát hiện và với tôi phải coi là  một trong những ý tưởng thú vị nhất của nhân loại thế kỷ XX:


 Khi có sự tranh chấp thì ruộng đất sẽ  [không thuộc về ai làm chủ nó ngay từ đầu mà] thuộc về ai làm cho nó màu mỡ  và khai thác nó một cách hiệu quả  nhất.


   


Những sự  mô phỏng công khai hay là chuyện xảy ra


trong những giai đoạn  văn học gọi là trứng nước 


  Trừ những thiên tài không kể ai cũng biết rằng việc sáng tác ban đầu là một thứ mô phỏng. Thấy người ta làm thì ta bắt chước. Điều này không chỉ đúng với các cá nhân, mà còn đúng với cả cộng đồng. Ai đã có phen trở lại với văn học Việt Nam thời kỳ mò mẫm tìm đường những năm đầu thế kỷ XX thì biết. Nền văn xuôi mới được hình thành  từ một vài chuyện tức khí: thấy  những sách của người Tàu bán chạy thì nhiều tác giả Việt như Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu cũng biến báo ra các truyện đăng báo, trong đó cảnh và người đều  được Việt Nam hóa.

   Có phần thọ hơn là những cuốn sách học theo văn chương Pháp. 

   Lịch sử văn học còn ghi nhiều cuốn sách của Hồ Biểu Chánh được làm theo kiểu các tác tác phẩm của văn học Pháp thế kỷ XIX, cụ thể là của V. Hugo.

   Một ví dụ khác: Đầu kháng chiến chống Pháp trong hoàn cảnh phải kéo nhau lên rừng bắt tay làm ra nền văn học mới, nhiều người lúng túng tìm đường và chỉ còn có cách trông vào một phần là những cuốn sách văn học Nga dịch ra tiếng Pháp. Nhà văn Tô Hoài vớ được một cuốn tiểu thuyết xô - viết nói chuyện du kích chiến tranh đúng kiểu công tác tuyên truyền của mình đang cần. Thế là ông rút gọn và cắt nối lại đôi chút, rồi phỏng dịch ra, gọi tên nó là Lão đồng chí  và cho công bố như chính mình viết ra. Được cái tới khoảng sau 1990 nghĩ lại, ông công khai gọi đó là tác phẩm phóng tác và không lấy vào danh mục sách của mình nữa.


      Chẳng phải chỉ  trong văn học mà cả trong âm nhạc hội hoạ -  và trong văn học thì không chỉ trong sáng tác mà trong nghiên cứu - cũng đã có những hiện tượng rất cần được lý giải một cách độ lượng  tương tự. 


     Thử nhìn vào ngành học nghiêm chỉnh như ngành giảng dạy văn học nước ngoài trong các nhà trường ở Hà Nội sau 1954.  Mới từ Việt Bắc trở về những năm ấy đã ai biết gì nhiều về văn học nước ngoài đâu, song cần dạy thì dạy. Một cách mặc nhiên người giảng dạy văn học Nga thì  lấy sách Nga ra mà giảng, người giảng dạy văn học Pháp thì hơn nhau ở chỗ ai đọc tham khảo được nhiều sách Pháp hơn và có gu hơn trong việc chọn ra ý kiến để đưa vào giáo trình do mình biên soạn. 

     Việc tiếp nhận văn học nước ngoài ở ta là thế, cả nghìn năm sống theo Nho học các cụ ngày xưa cũng chưa biên khảo được một công trình nào về văn học Trung quốc, huống chi ngày nay chúng ta đứng trước những đối tượng mới mẻ hơn vả phải làm việc trong một hoàn cảnh khó khăn hơn, ai lại nỡ trách các nhà nghiên cứu văn học nước ngoài hiện đại.


    Lại như đầu thế kỷ XX,  trong việc tiếp xúc với văn hoá Pháp  văn hoá Việt nam nảy ra một bước ngoặt. Ta bỗng nhận ra  ở ta có những thứ mọi người đều có, riêng ta không có. Bởi vậy nhiều thể loại nghệ thuật mới nảy sinh  chẳng hạn âm nhạc.


      Mà sự khai sinh lúc đầu cũng tuỳ tiện lạ lắm, giá ngày nay thì sẽ bảo ngay là đạo nhạc. Tức là hồi ấy nhiều người dựa vào những bản nhạc Tây rồi soạn lời ta và cho phổ biến. Phong trào lan ra theo chiều rộng một người như Trần Huyền Trân từng sống bằng nghề này.


     Vậy mà chẳng ai lấy thế làm lạ vì ai cũng hiểu  rằng nếu không có những bước tập tành đó thì sẽ không bao giờ có một nền âm nhạc của người Việt.


   Lịch sử còn ghi: Mãi tới cuối những năm ba mươi đầu  bốn mươi của thế kỷ XX một số người mới tính việc sáng tác một số bản nhạc độc lập của mình mà Nguyễn Xuân Khoát Hoàng Quý Lê Thương là những người đi đầu.


     Họ vừa làm vừa ngần ngại không rõ mọi việc sẽ đi đến đâu.


     Bởi vậy có lần (trên Thanh Nghị số ra 16-6-1942),Nguyễn Xuân Khoát đã  nêu vấn đề  Nước Việt nam có thể có một nền âm nhạc được không ?


     Đáng chú ý là ngay trong bài này, cái hiện tượng  bây giờ ta gọi là đi thó của người kia đã được ông lưu ý.


     Nguyễn Xuân Khoát viết 

  “Trong công việc đó ( việc soạn những bài nhạc mới  --VTN chú )  tất nhiên  phải tránh hết sức cái lối mà trong văn thơ ta gọi là lối lột văn (plagiat) nghĩa là  định ý hay bất giác  lấy của người này một đoạn lấy của người kia  một câu, thay đổi đôi chút, chắp nối thành một bài  đọc lên nghe cũng có vẻ kêu lắm nhưng không thể che được mắt người thức giả.” .


     Theo tôi cảm hứng chính trong câu nói trên của Nguyễn Xuân Khoát  không phải là muốn  tố cáo một tội lỗi mà là một lời cảnh tỉnh. Ông như một người đi trước biết điều luôn mồm nhắc nhở chung quanh:Cẩn thận đấy khéo rơi xuống vực; cẩn thận đấy kẻo cầm nhầm của người ta lúc nào mà không hay biết -- ông nói điều đó với đồng nghiệp chung quanh mà như nói với chính ông nữa. 


     Vào khoảng 1973 -1974, trên báo Nhân dân có cuộc thảo luận về làm ăn thật thà. Chúng tôi theo dõi cuộc thảo luận với một nỗi lo. Ai cũng thấy khó;  trong khi không đồng tình với tình trạng gian dối, đồng thời vẫn không hiểu làm sao để ngăn chặn nổi cái căn bệnh có vẻ lặt vặt nhưng toàn dân cùng mắc đó.


     Điều thắc mắc ấy trong tôi chỉ được giải đáp cho đến khi  được nghe Nguyễn Khải kể lại rằng về chuyện này nhà văn Nguyễn Đình Thi có một ý rất hay. Ông Thi bảo “Làm ăn theo kiểu tiểu nông manh mún như ta thì làm sao thật thà được!”


    Có nhiều việc lẽ ra không được làm mà người ta phải chấp nhận;  và ở đây không thể thẳng tay với nhau theo kiểu cạn tàu ráo máng.


     Bởi  truy nguyên đến cùng chỉ vì quá nghèo nên mới làm vậy.


     Trở lại cái việc  hôm nay. Chép bài từ sách  của người  mô phỏng và đẩy quá lên nữa là đạo văn…. bấy nhiêu hiện tượng chỉ có thể nảy sinh trong hoàn cảnh một đời sống văn nghệ có nhiều hạn chế ít  quan hệ với các nền văn nghệ khác -  nói như chữ nghĩa thời nay là  ít được  thông tin.


      Thật vậy sắc thái chủ yếu của cái  hành động gọi là đạo văn là chất tỉnh lẻ: nó thường nảy sinh ở những người không được đào tạo cơ bản tạt ngang tạt ngửa đi tắt trong nghề. Họ thường lợi dụng sự nhốn nháo của hoàn cảnh để hành sự. Nhân cuộc thi ở tỉnh A. họ biết các quan chức tỉnh A cũng ít đọc nên lấy bài ở tỉnh B. mang về dự. Hoặc nhân việc các tài liệu nghiên cứu văn học ở Sài Gòn trước 1975 ít  người có  thế là khi gặp được hoàn cảnh thích hợp  có người mau mắn  chép vội những gì sách báo ở đó đã viết làm sang cho mình. Chẳng qua là một thứ gà què ăn quẩn cối xay mà trong cái trọng tội riêng của từng người, người ta có thể nhận ra tình trạng phát triển chung của một giai đoạn văn nghệ.


     


khi ý thức con người còn khá hồn nhiên 


    Con người, như các công trình nghiên cứu tâm lý ghi nhận, không phải ngay từ đầu đã  tách mình ra khỏi chung quanh. Trong chừng mực mà người nọ còn như lẫn vào người kia, thì chuyện cầm nhầm nhiều khi là chuyện vô ý thức.

     Có lần đọc một cuốn sách tâm lý học, tôi thấy  người ta đưa ra một  ví dụ: nhiều trẻ khoảng năm sáu tuổi đang chơi bóng với bạn tự nhiên cầm trái bóng lên. Nó quên rằng lúc đó trái bóng không thuộc riêng mình nó mà thuộc về cả nhóm bè bạn. Nó  quên và tưởng chỉ  duy nhất có mình trên thế giới này. Nhưng cầm về đến nhà nó lại chợt nhớ ra mà mang chơi tiếp. 


   Cái sự tách mình ra khỏi người khác như vậy là loại phản ứng tâm lý chỉ có ở những cá nhân đã trưởng thành. Mà có khi đã đến tuổi  “cổ lai hy” rồi người ta cũng chưa chắc đã tìm ra mình, nó là tiền đề để mọi sự ấu trĩ hôm qua trở lại.


   Xin phép được kể một câu chuyện riêng: cuối năm 1975, tôi có dịp về một vùng nông thôn Thái Bình. Đêm nằm cạnh ông chủ nhiệm đúng vào buổi Đài tiếng nói Việt Nam đang giới thiệu về Nguyễn Minh Châu. Nghe được mấy câu tôi hào hứng bảo ông chủ nhiệm: “Anh nghe xem, đây là bài tôi viết đấy”. Nhưng mấy phút sau thì cô phát thanh viên sau khi đọc xong bài đổi giọng: “Các bạn vừa nghe bài viết về nhà văn Nguyễn Minh Châu của nhà phê bình văn học Ngô Thảo."


     Những năm ấy tôi và Ngô Thảo đang sống chung trong một cơ quan và chung một tình yêu với Nguyễn Minh Châu. Thành thử tôi không quá xấu hổ vì chuyện nhận vơ đó mà chỉ thầm nghĩ cái chính là mình chưa tách ra khỏi bạn.


    Lúc này mới thấm thía cái trường hợp mà Tế Hanh từng kể:


    Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế


   Đọc câu thơ đồng chí tưởng thơ mình


    Cũng vì chưa tách khỏi nhau  nên trong giới  không khỏi có tình trạng như thế này. Tức là trong cơn say chuyện anh A vừa phát hiện một ý thật hay  nói cho anh B. nghe, hôm sau đã thấy anh B đi khắp nơi rao giảng lại y như chính mình nghĩ ra và đôi khi còn nhanh nhảu đưa luôn lên báo. Là người trong cuộc, một vài lần bị cướp trên tay kiểu đó nhiều khi tôi cũng bực lắm, thề sau này không bao giờ thò ra cái ý nào mới cho mấy đồng nghiệp xấu chơi đó nữa. Nhưng rồi có lúc nghĩ lại, nhờ có người đó gợi chuyện mà mình mới nghĩ được ý đó, vậy thì phải cảm ơn anh ta trước. Còn người nào chỉ đi chôm chỉ đi thuổng sẽ không bao giờ đi hết được cái ý tưởng mà anh ta nhanh tay chôm vội đó. Rồi chỉ đến  lượt mình, mình mới đưa được cái ý mà mình phát hiện lên hết độ căng của nó, nó phải gắn với chính mình.    








   và những di luỵ lâu đời để lại 


    Nếu truy đến cùng lại phải thấy ở đây có cả những nguyên nhân lịch sử.


    Trong thời trung đại ở nhiều nước phương Đông như Trung quốc Việt Nam quyền tác giả còn là một khái niệm xa xỉ. Nhiều người làm thơ viết văn xong vì nhiều lý do khác nhau không dám đề tên mình bên cạnh. Mà người xem cũng chẳng lấy đó làm chuyện bận tâm. 

   Tác phẩm lưu truyền như một tác phẩm khuyết danh và cả hai bên người viết cũng như người đọc càng thấy nó trôi nổi càng vui. 

    Cũng nên biết thêm là lúc ấy guồng máy phân phối phát hành chưa hình thành; hoặc nói đúng hơn đã hình thành, song tồn tại theo kiểu tự phát mong manh rời rạc. Cụ thể là việc luân chuyển sách phụ thuộc vào mấy bà bán rong sách từ vùng nọ lan ra vùng kia theo kiểu vết dầu loang. Thường xuyên xảy ra cái cảnh một vị hàn sĩ đang đánh võng trong nhà, nghe có người bán sách đi qua thì gọi vào xem chơi. Nhặt được quyển sách hay hay, họ bỏ vài tiền ra mua. Sau một hồi  vầy vò ấn bản, cắt đầu cắt đuôi dựng lại cuốn sách, hoặc đơn giản chỉ là thêm vài chữ bớt vài chữ, người ấy lại thả nó vào thị trường tự do. 

    Cố nhiên, ở đây không loại trừ trường hợp vị tác giả đến sau kia hồn nhiên xoá tên tác giả đi, hoặc dồn tên người chủ cũ đó vào một chỗ  eo hẹp còn  tên mình thì trương ra thật to. 

    Thì đã sao nào - họ nghĩ bụng. Cả cuộc đời này đã là phù vân đã không đáng trọng, thì mấy cái danh hão gọi là quyền tác giả mà làm gì, cả người được và người mất đều không thấy có điều gì phải vấn vương cả. 

     Nếu biết rằng một cách làm văn chương cách hiểu về quyền tác giả như vậy đã kéo dài trong trường kỳ lịch sử, thì người ta không lạ những chuyện tuỳ tiện còn xảy ra đến ngày hôm nay.





Hãy lấy sự sáng tác của mình để thanh minh cho mình


    Tôi nhớ có đọc ở đâu đó một đoạn có liên quan tới Vũ Bằng. Khi bị người ta bắt quả tang chuyện chép từ sách người, ông thanh minh rằng ờ thấy của người ta hay quá thì chép vào cùng đọc, chứ làm chi mà ồn. 

    Tức ông không lấy thế làm điều, mà hồn nhiên bắt qua chuyện khác.


    Với tư cách là một người đến sau trong văn học, bản thân tôi bắt gặp ở mình một tình cảm lạ. Là sau khi nghe Vũ Ngọc Phan tố như trên thì sức hút  của  các văn phẩm của ông với tôi vẫn không đổi.


      Tôi tự hỏi tại sao mình lại có biệt nhãn riêng với  Vũ Bằng như vậy, trong khi với một hai người cùng lứa, từ ngày biết rằng anh ta đã dựa hơi đã làm hàng giả từ một số văn phẩm nước ngoài… thì tôi cạch mặt không bao giờ muốn đọc của anh ta nữa.


      Lý do, anh bạn mà tôi không tiện nhắc tên trên đây thật ra chỉ được cái giỏi luồn lách, chứ ngay những cái của anh 100%, tất cả cũng chẳng ra gì.


     Trong khi đó, Vũ Bằng lại có hồi  ký Cai với những thể nghiệm về tư duy văn xuôi ảnh hưởng sang cả một loạt nhà văn khác như Nam Cao Tô Hoài; còn có Thương nhớ mười hai gợi lại đời sống một thời Hà Nội thực là Hà Nội thanh lịch.


     Với các bạn có lần "tay đã nhúng chàm", tôi nghĩ chỉ có cách ta sẽ viết hay hơn; sẽ tìm ra một viết của ta, một giọng thơ giọng văn của ta. Rồi thì thiên hạ sẽ quên hết thời ta còn non dại trứng nước.

      Đây là một sự liên tưởng mà tôi lấy từ sách vở.


    Hồi trước 1954, ở Hà Nội tạm chiếm, có lần tôi đã được đọc một thiên truyện của Lê văn Trương mang tên Kẻ đến sau. Truyện viết về một người con gái đã có lần nhỡ nhàng với một người đàn ông khác, nhưng sau nhờ giữ được kín đáo nên vẫn lấy được một tấm chồng tử tế. Người xưa vốn kỹ tính, nên anh chồng này khi phát hiện ra mình là một kẻ đến sau thì đau đớn lắm. Nhưng người vợ đã bằng cái hạnh kiểm nết na hiếu hạnh của người đàn bà thời xưa làm cho người chồng phải nghĩ lại và tự hào rằng mình là người hạnh phúc, chắc chắn là hạnh phúc hơn nhiều đức ông chồng tuy được cái tiếng là kẻ thứ nhất làm chủ thân xác vợ, song người đàn bà ấy lại thiếu mọi tư cách của người vợ, người nữ tướng trong gia đình.




     

Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015

Cuộc phỏng vấn về tuổi trẻ miền Nam trên tuần báo "Khởi hành" 1969


Trên tờ Khởi hành , tuần báo tồn
tại ở Sài Gòn từ 1969 đến 1973, từng có một cuộc phỏng vấn theo dạng mời
bạn đọc viết chung quanh chủ đề tuổi trẻ miền Nam 1969. Dưới đây là một
số trích đoạn các phát biểu hồi đó, chúng tôi chép lại trong sổ tay cho nên không ghi chính xác xuất xứ từng ý một - rất mong bạn đọc lượng thứ.



Buổi chiều bị dí súng sau lưng đi đào đường đào hố. Buổi tối bị dí súng sau lưng đi mở đường lấp hố.

Mãi mãi tuổi trẻ vẫn là tuổi khốn nạn thiệt thòi nhất. Nắm lấy tay nhau chúng tôi đã khóc.

Như một tác giả nước ngoài đã viết, chiều sâu của chúng tôi là vực thẳm, tuổi trẻ của chúng tôi không có thanh xuân.





Tuổi trẻ vốn hiền lành và chân thành với tôi, qua thi ca, tuổi trẻ được
phơi bày là một tuổi trẻ với đầy vết tích, một thứ tuổi trẻ sống sượng,
già cỗi.

Tuổi trẻ bây giờ bất mãn đã nhiều rồi, nên không còn ao ước gì nữa, vì
sợ rằng nếu ước muốn được thì tuổi mình đã bỏ đi thật xa rồi.

Không khí tôi sống không phải là không khí ao ước.

Bao giờ để tôi có thể hãnh diện về xóm tôi ở?

Nhìn hai chữ tuổi trẻ mà tôi phải thao thức một đêm.



Tuổi trẻ chỉ có hận thù và bất mãn. Hận thù và bất mãn trước hoàn cảnh, sự bất lực của mình.

Trong hiện tại, tuổi trẻ đã bị mạo hoá ( làm giả -- VTN chú )và biến thể dưới nhiều tình trạng đặc biệt.

Từng cho rằng người Việt Nam chỉ đáng là người Việt Nam nếu trong đời đã hơn một lần chạy loạn.

Chúng tôi là những kẻ bị đầu cơ tích trữ lạm dụng chiếm đoạt.



Tuổi trẻ bây giờ phải thức đến suốt một ngàn lẻ một đêm hoạ hoằn mới tìm
cho mình một chỗ đứng khả dĩ vung vãi được hạt giống suy tư về ước mơ
thanh bình cho mọi người cùng hy vọng.

… Tuổi trẻ trở về thành thị để ôm đồm thêm những ngày dài thao thức, trở về thôn quê để phó thác thân mình cho bom đạn vô tri.

Không khí tuổi trẻ bị chôn sống tức tưởi trong hiện thực tan nát của xã hội.

Hư hỏng bên ngoài quyến rũ. Chưa có thời đại nào như bây giờ, tuổi trẻ
đã ngấm ngầm, đã phát hiện sự a dua tột cùng của thời đại.



Sài Gòn bây giờ xô bồ và thác loạn. Sài Gòn không giúp gì cho tuổi trẻ
Việt Nam hôm nay cả. Đã lâu – và hiện tại -- tuổi trẻ như một trang sức
bị lợi dụng.

Tuổi trẻ đã bị xã hội bôi đen bộ mặt ngây thơ tội nghiệp mất rồi. Không
bi quan thì phải lạc quan ở chỗ nào? Chẳng ai muốn hiểu chúng tôi cả.
Mấy ai muốn sống với cái tuổi trẻ như chúng tôi.

Tuổi trẻ là lớp tuổi rất nhiều mặc cảm, nhưng lớp trẻ không có một tiếng
kêu đồng nhất, một hướng đi đích thực. Đang phó mặc cho đời tô điểm
mình. Đang rũ riệt trong khắc khoải. Đang lo âu cho mình khi phải làm
người già.



Tôi là ai? Là một người đi lính, thấy ngạt thở, thấy buồn cười, thấy
tuổi trẻ bị đầy đoạ, thấy tuổi trẻ bị dồn vào thế kẹt, vì thế tôi luôn
phẫn nộ, tôi thích những nhà văn lớn mà phẫn nộ như tôi.








M Thảo  viết trong Quán bệnh   Khởi hành 1969


Mỗi
buổi chiều, khi trời tím lại sau những toà nhà chọc trời, tiếng súng
ngoài xa vọng về, và hoả châu sáng trên những địa hình ven đê thành phố,
hàng nghìn người trẻ tuổi chúng ta đã tới đó ngủ tiếp giấc ngủ chiều
ma quỷ. Xã hội này thù nghịch. Thời đại này bất toàn. Hiện tại này xa
lạ và tương lai kia mịt mùng. Đường tuổi trẻ lầy lội. Trời tuổi trẻ mưa
bay. Và những người trẻ tuổi của chúng ta đã tới gặp nhau, như những
cánh dơi vỗ đập rã rời trong một hầm đá tối thẳm. Họ mới mười bảy thôi.
Nhưng đài trán đã nhăn, chân trời đã mỏi, tròng mắt đã tối, hoài nghi
đã là. Họ mới mười tám thôi. Nhưng ngón tay đã gầy, khối sầu đã lớn,
chủ nhật đã buồn, chăn chiếu đã lạnh. Họ mới hai mươi thôi, nhưng tóc
thôi đựng gió, miệng chẳng nụ cười, hồn không ánh sáng. Và họ tới ngồi
đó trong những quán nhạc kia, những quán nhạc như nơi trú ẩn cuối cùng,
nhận những ca khúc sầu thảm lướt thướt làm tiếng nói của mình, chìm
đắm, nhạt nhoà, trong  một trầm tư không đối tượng.


 [So sánh với một bệnh viện]


Bệnh
viện ấy và quán nhạc kia đều cùng một thế giới. Cái thế giới lặng lẽ
của những người nằm bệnh có khác là ở một nơi, người đau nằm trên
giường, ống thuốc cầm trên tay. Và một nơi người đau ngồi lặng, yếu đau
bằng âm nhạc. Khác nữa một đằng người đau thật có bệnh, và một đằng chỉ
là bệnh tưởng đau.





[Từ đó đặt vấn đề nhận đường khởi hành]


Tuổi trẻ cần phải “trang nghiêm đốt lên với nhau một ánh lửa nhận đường”






Tuổi
trẻ bây giờ già nua trước tuổi. Tuổi trẻ bây giờ là thuốc lá đen, cà
phê đen, nghe nhạc thoát lũ loạn cuồng, bất cần thế sự.

Tuổi trẻ nham nhở -- người ta thường nói nham nhở như cuộc đời. Tuổi trẻ
dao động, băng mình đi trong đêm, nhiều lúc muốn cắt đứt sự liên hệ
giữa gia đình thân hữu.



Tuổi trẻ như những tượng đất sét nung sẵn trong lửa đỏ và biết chạy nhảy theo một khuôn mẫu định sẵn.

Người chúng tôi khoác đầy những bùa chú đỏ đen, khẩu hiệu biểu ngữ, bích
chương điên khùng. Tuổi trẻ tôi ngột ngạt như bị giam hãm trong vòng
vô hình xiết chặt thường xuyên. Lo sợ, thôi thúc, chán nản, tuyệt vọng,
nổi loạn bất mãn, hoài nghi, thảng thốt cả trong giấc ngủ.

Tuổi trẻ của chúng ta như những cây măng non, những cây măng không bao giờ là tre cả.



Tuổi trẻ là những tên đầu óc bờm xờm, áo quần hoa hoét, lượn xe từng đàn
ngoài phố. Là những tên hình dung cổ quái trong cách trang phục, vặn
vẹo uốn éo theo những đĩa nhạc kích động ngoại quốc. Như một con vẹt
chính cống.

Tuổi trẻ là những thằng mặt mày búng ra sữa, nhưng cũng từng đám tụ họp
trong cái không khí suy tư giả vờ, buồn nôn, bày đặt của những quán cà
phê văn nghệ đang mọc dậy ầm ầm nơi thành phố này.

Tuổi trẻ là những tên ngơ ngơ trước mọi giáo điều của người lớn để xuống
đường để đả kích hoan hô. Để tụ họp, để hội thảo,-- nhưng đả kích hoan
hô hội thảo cái gì thì cũng chẳng đi đâu. Những tên bé dại khờ khạo.

Điều tôi ao ước nhất là đến bao giờ mới chấm dứt cái cảnh người tôi nặng
trĩu vì giấy tờ hợp pháp. Tôi mong khi đó tôi có thể đi bất cứ chỗ nào
mà không bị một đôi mắt nghi kỵ thù hằn dò hỏi.

Hầu hết những nguời tuổi trẻ phải chấp nhận một liên hệ định mệnh với
thời cuộc. Lý tưởng thì xa vời. Căn bản thì nghèo đói. Muốn hy sinh cũng
chẳng biết hy sinh làm gì và cho ai.Tuổi trẻ mù loà vì mắt đã mở quá
rộng.

Dù sao đi nữa, tuổi trẻ cũng thiệt thòi nhiều nhất trong bất kỳ một cuộc
chiến nào. Niềm khao khát lên đến cao độ trong thế hệ hôm nay: “cho tôi
yêu một lần để tôi chết một đời”.



Đừng bao giờ đòi hỏi ở tuổi trẻ quá nhiều sự hy sinh khi các bậc đàn anh
vẫn thản nhiên hưởng lạc trên mồ hôi và xương máu của tuổi trẻ.

Văn chương chỉ còn là một thứ chất ma tuý để thoả mãn tuổi trẻ

Tuổi trẻ bây giờ đối với tôi thành một danh từ thê thảm và khốn nạn nhất

Tôi đếm trời xanh bằng cỏ cây héo úa, tiêu điều trên quê hương. Tuổi trẻ
của tôi chạy đi chạy lại dưới giao thông hào, nhìn sự chết qua lỗ châu
mai, qua ánh sáng đèn vàng vọt. Ngoại thương, thù hận, bi phẫn đủ cả.

Đánh giặc như điên. Đánh ở mặt trận với tuổi trẻ có súng. Đánh ở thành
phố với tuổi trẻ loè loẹt hippy. Tuổi trẻ của tôi là phá phách tàn sát.
Mộng cuối cùng của tôi điên cuồng và tê dại.

Tuổi trẻ của tôi miệt mài tháng ngày với lửa đạn, với ngón tay trỏ bao lần siết chặt, để tra tấn để huỷ hoại tuổi trẻ bên kia.

Dưới ánh mặt trời nóng nực của cuộc sống rộn ràng, tôi không muốn tranh
nhân chấp ngã, tôi muốn điếc, tôi muốn câm, tôi muốn đui mù để tôi không
còn nhận thức gì được nữa.

Tôi sống ở Mỹ Thọ. Một thành phố mang một phần nào vẻ buồn tỉnh lỵ. Có
lá me bay, có những con đường xanh mát, và rất nhiều những tà áo học
trò. Đó là hình ảnh ngày xưa, bây giờ thì không còn gì nữa, cây đã trụi
lá trơ cành, đường xá loang lổ vì GMC và những người lính đi uống cà phê
mang theo M16, những người con gái 18 với vành khăn sô mười tám tuổi
rưỡi đi lấy Phi Luật Tân.

--------

Một học sinh chia học trò bạn mình làm 4 nhóm

1. Bàn chuyện thời cuộc: ít

2. Học ở mọi không gian và thời gian: cũng ít

3. Bàn chuyện đánh lộn, trả thù: đông hơn

4. Nói tình yêu, nghệ thuật tán gái: nhiều nhất

Thanh niên nông thôn: Sao cũng được



Bài học đầu tiên là cách sử dụng vũ khi ngoại bang.

Kinh nghiệm đầu tay là nghệ thuật giết người.

Thế hệ cha anh của chúng tôi lại âm mưu đặt lên đầu chúng tôi một hệ thống thủ đoạn nhằm chặn đứng mọi vươn lên cần thiết.





Một bằng chứng trong địa hạt văn nghệ
(là) các văn thi sĩ tiền chiến phá vỡ cầu thang khi đã leo được trên
lâu đài bưng bít, chung quanh có thành quách bao bọc. Chúng tôi hiện
diện, họ không chối cãi. Nhưng họ lại quy ước rằng tiếng nói của họ
đặc quyền độc vãng độc lai. Ngôn ngữ của chúng tôi tắt nghẹn từ lồng
ngực, từ ý niệm hình thành. Chúng tôi bị bịt miệng, bị nhận chìm, bị
chôn sống.


(Nhưng)
chúng ta hãy cúi đầu thú nhận rằng chúng ta đã quá ướt át, mềm yếu,
quá e dè sợ sệt, gầm mặt bước đi âm thầm trong công ước cũ không một
lời phản kháng.


 Được sống là may lắm rồi .


Tuổi
trẻ hôm nay chỉ xin được im lặng và ngủ say. Im lặng để làm lại cuộc
đời, để dưỡng sức, và ngủ say để quên đi tất cả. Tất cả xin khai tử để
giữ vệ sinh cho TQ. Quê hương đã băng hoại quá rồi, xin đừng dẫn
chúng tôi làm băng hoại nữa.


Duyên  Anh Ảo vọng của tuổi trẻ






Nhiều khi đi ngang qua những con đường phố gặp những cậu con trai 15,
17 mà đã bắt chước cà phê thuốc lá, ăn mặc lố lăng, tôi thấy ghê tởm và
khinh ghét họ. Nhưng sau những đêm kinh hoàng vì pháo kích, tôi lại thấy
thương mến họ rất nhiều.

Nhiều đêm nghe còi báo động, giật mình nằm nhắm mắt và chắp tay cầu
Phật. Một phần phó mặc cho định mệnh, một phần cầu khẩn van xin.

Về thành phố, (lính) tủi nhục hơn là vui sướng. Một người bạn 3 năm mới
về phép gặp nói với tôi, họ đang làm tình trên xác chết của mình, của bè
bạn chúng mình.

Hai vòm trời ấy (giữa kiếp lính và những ngày nghỉ phép) -- một bên tê liệt, một bên xô bồ.

Chúng tôi mang tâm sự một kẻ đang bị tróc nã, lúc nào cũng muốn đổi mới và đi tìm.

Tuổi trẻ là gì? Một thằng 8 tuổi, một thằng 9 tuổi, thằng 10, thằng 11,
thằng 14 – chúng nó tụ họp theo mấy cái snask bar ở đường Trần Hưng Đạo.
Một xe Mỹ đến, chúng ùa chạy ra lôi kéo, miệng ô -kê, tay dắt mối cho
điếm. Chúng nó có thể là tuổi trẻ không?



Đã đưa trên blog này ngày 27-6-2011