Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2015

Chung quanh câu chuyện đổi mới nhận thức lịch sử





 Tạp chí Văn học số 6 - 1990 đăng bài Đổi mới nhận thức lịch sử trong nghiên cứu khoa học xã hội nói chung, nghiên cứu văn học nói riêng của Nguyễn Huệ Chi.  Trên nét lớn chúng tôi tán thành các ý kiến của tác giả bài báo và muốn nhân đây, bàn thêm về một vài căn bệnh mà một số tài liệu liên quan tới lịch sử văn học thường mắc phải, nó là lý do khiến cho các công trình nghiên cứu đó ít sức thuyết phục và cả ngành lịch sử văn học trì trệ, chậm phát triển.







Những cắt xén
tuỳ tiện mang tính cách vụ lợi



Trong sách Lịch sử văn minh Trung Quốc, học giả W.  Durant có kể lại một đặc điểm của Khổng Tử “vị hiền triết già ấy có thói quen không ngại làm sai sự thực đi đôi chút, để lịch sử có một ý nghĩa luân lý”





Chúng tôi không đủ trình độ để kiểm tra xem các tài liệu có liên quan đến Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương... ở ta có bị cắt xén theo cách ấy không. Nhưng nhìn vào các bài viết, các công trình nghiên cứu hoặc giản dị hơn, cách giới thiệu khi xuất bản các sáng tác thuộc về văn học Việt Nam thế kỷ XX, thì thấy lối làm việc trên đây của Đức Thánh Khổng được vận dụng một cách rất tự nhiên, khéo léo.





Ai cũng biết rằng Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận... là những kiện tướng của văn học trước 1945, song lại có đóng góp lớn vào đời sống văn nghệ sau 1945. Bởi vậy, các sáng tác cũ của các ông dễ được chúng ta ưu ái hơn so với những người đương thời. Ngay từ 1982-1983, Thế Lữ, Xuân Diệu đã có Tuyển tập của mình. Nhưng các tuyển tập đó được làm như thế nào?





- Trong Tiểu sử ghi ở đầu sách, những người làm tuyển tập lờ hẳn đi việc cả Thế Lữ và Xuân Diệu đều đã có chân trong Tự lực văn đoàn.





- Các bài báo của Thế Lữ in trong mục Tin thơ, Tin văn... vắn chỉ ghi trích ở báo Ngày nay mà quên nói rõ thật ra đó đều là những bài phát biểu quan niệm chính thức của nhóm Tự lực, tranh cãi, chế giễu bài bác lại các báo khác khi họ công kích Tự lực.





- Hàng loạt bài thơ của Xuân Diệu trong Thơ thơ, của Huy Cận trong Lửa thiêng, khi in ra lúc đầu, có chua rõ là tặng Nhất Linh, tặng Khái Hưng, tặng Hoàng Đạo... nhưng khi in lại, bị rũ sạch, “phi tang”. Ngược lại lời đề tựa của Khái Hưng cho Vàng và máu của Thế Lữ bản in ra lần đầu cũng bị ngơ đi, coi như không có.





Trong bài viết này, chúng tôi không có ý định bàn riêng về sáng tác của Thế Lữ hay Xuân Diệu. Chúng tôi chỉ lưu ý một điều: nghiên cứu về sáng tác của hai vị đó trước 1945 mà không đặt các sáng tác ấy vào cái mạch của Tự lực văn đoàn nói chung thì chẳng khác chi tách cá ra khỏi nước.





Có thể bảo đây là những ví dụ sinh động, chứng tỏ chủ nghĩa công lợi (chữ của Nguyễn Huệ Chi) đã thấm vào chúng ta một cách sâu sắc. Nhưng cũng nên nói thêm rằng ẩn sau sự tuỳ tiện đáng sợ, tuỳ tiện cắt xén thêm bớt trong việc trình bày các sự kiện trong quá khứ, thực chất là thái độ coi thường lịch sử, cho rằng hoàn toàn chúng ta có quyền đưa ra một thứ lịch sử hợp với ý muốn của chúng ta.





Mấy chục năm qua sự tuỳ tiện này đã chi phối một số người nghiên cứu trong việc đánh giá các sự kiện văn học quá khứ, dẫn đến những vô lý trong việc cho phép công bố hay cấm đoán tác phẩm này, tác phẩm nọ. 

Xét trên bình diện tư tưởng, bức tranh Cô gái bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân vốn rất gần với những Hồn bướm mơ tiên, Đời mưa gió, Gánh hàng hoa. Thế nhưng trong khi Cô gái bên hoa huệ được thừa nhận như một đóng góp cho hội hoạ hiện đại, thì các tiểu thuyết nói trên của Nhất Linh, Khái Hưng bị gạt ra khỏi lịch sử văn học trong một thời gian dài. Tại sao? Tại chúng ta có thói quen chú ý đến người, đánh giá tác phẩm qua người, quan hệ người với thời cuộc, chứ không phải qua văn, qua sáng tác của người đó nói chung. Cũng vì con người Nhượng Tống “có vấn đề” mà một thời gian dài chúng ta đã bỏ qua bản dịch Mái tây và nhiều bài thơ Đỗ Phủ là những đóng góp độc đáo của Nhượng Tống đối với lịch sử văn học, đặc biệt là trên phương diện ngôn ngữ ( mãi gần đây mới khôi phục trở lại ).





Lối hiện đại
hoá không thể chấp nhận



Nếu việc trình bày lịch sử văn học hiện đại thường mang nặng tính chất tuỳ tiện và vụ lợi thì nhiều tài liệu nghiên cứu văn học (từ thế kỷ XIX trở về trước) lại cung cấp những ví dụ rõ rệt chứng tỏ các nhà nghiên cứu thường hiện đại hoá lịch sử tức “uốn nắn lịch sử theo con người hiện đại”  “làm cho lịch sử mang những nét đồng dạng với hiện đại” “dẫn tới tình trạng làm nghèo lịch sử” (Nguyễn Huệ Chi)





 đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Đó là quy luật của đời sống. Nhân dân ta vốn đã anh dũng trong sự nghiệp chống ngoại xâm, lại cũng kiên cường bất khuất trong công cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra lâu dài và ngày một trở nên quyết liệt” . Một đoạn văn với kiểu viết như trên có thể gặp trong khá nhiều tập sách nghiên cứu văn học, phần viết về bối cảnh lịch sử (ở đây chúng tôi lấy từ Tuyển tập truyện Việt Nam thế kỷ X thế kỷ XIX). Để nội dung ý kiến sang một bên. Điều làm chúng tôi băn khoăn là cách diễn đạt: chẳng nhẽ chỉ có một công thức duy nhất như vậy để nói về quá khứ? Trước mắt chúng ta là sách văn học sử hay sách giáo khoa chính trị, sách giáo khoa triết học?





Khi đi vào miêu tả từng cá nhân, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cũng không hề dè dặt gì hết, cứ hồn nhiên mà khoác lên người các bậc tiền bối những bộ y phục vốn chỉ dành cho con người hiện đại. Dưới ngòi bút của những người viết văn học sử mà thiếu cảm hứng lịch sử, các nhà văn nhà thơ vốn sống cách đây từ một đến vài thế kỷ nói chung đều mang khuôn mặt tinh thần của con người hôm nay. Thậm chí trong một số trường hợp đọc kỹ một số đoạn miêu tả thấy giá thay chữ ông bằng chữ đồng chí thì cũng không gây ra cảm giác đảo lộn gì ghê gớm lắm.





Sau đây là một ví dụ:





- Trên con đường đi tìm một phẩm chất trong sạch, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tự giác hoặc không tự giác kế thừa và phát huy những giá trị tinh thần lâu đời của dân tộc, những giá trị tuy bị giai cấp phong kiến lúc bấy giờ vứt bỏ, nhưng vẫn tiềm tàng trong đời sống của nhân dân (Lời giới thiệu đặt ở đầu Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm)





- Trong tình hình chưa ổn định của vùng đất đang khai phá việc tập hợp nhân dân và tất cả những hạng người có thể sử dụng được đòi hỏi phải có một độ lượng rộng rãi ở người lãnh đạo. Nguyễn Cư Trinh đã tỏ ra tự hào vì đã dung nạp được mọi hạng người để phục vụ cho công cuộc chung. Để có thể đạt được sự nghiệp lớn, Nguyễn Cư Trinh đã tự đề ra cho mình những yêu cầu nghiêm khắc (Nguyễn Cư Trinh là người có kinh nghiệm đấu tranh) có tinh thần hăng hái tiến lên phía trước... (Văn học Việt Nam thế kỷ X nửa đầu thế kỷ XVIII, tập II)





- Nhưng mặt khác cũng cần vạch ra rằng “chí nam nhi” của Nguyễn Công Trứ  không có tý liên hệ nào với quần chúng, nó coi thường quần chúng thậm chí có lúc còn đi ngược lại quyền lợi của quần chúng. Nhà thơ đã vận dụng nó một cách giáo điều vào một hoàn cảnh không còn tiền đề cho nó tồn tại nữa (Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX, tập II) [1]





Rộng hơn câu chuyện về từng cá nhân cụ thể còn thấy có hiện tượng cả một thời kỳ cả một giai đoạn lịch sử văn học được dựng lại theo kịch bản hiện đại. Trong nhiều cuốn sách mệnh danh là công trình nghiên cứu, quá khứ được mô tả cứ làm người ta ngờ ngợ bởi sao mà nó quá giống đời sống văn học hôm nay. n tượng đó còn được củng cố thêm do nơi có sự áp dụng bừa bãi các nguyên tắc lý luận hiện đại cho lịch sử. Đáng lẽ phải xuất phát từ chính lịch sử để suy xét và nêu ra vấn đề cho lý luận giải quyết, thì ngược lại, thường xuyên có tình trạng lấy lịch sử ra để minh hoạ cho lý luận. Dù khéo léo, dù thô thiển, song đã gọi là minh hoạ tức đã làm nghèo lịch sử mà cũng chẳng mang lại lợi ích gì cho lý luận thực thụ!






         Nên quan niệm
về lịch sử như thế nào?






Có những lối nói, lối nghĩ phổ biến trong giới nghiên cứu, người nói kể nghe giống nhau trong cách tư duy nên cứ thế chấp nhận rồi nghe mãi quen đi, không thấy lạ, nhưng có người bạn xa, lắng nghe, thấy không thể chịu được. Thuộc về cái sự bất cập ấy là những lý luận của chúng ta khi trình bày những tất yếu lịch sử. Chẳng hạn, không hẹn mà nên, cả Hoàng Trung Thông trong bài tựa Tuyển tập Xuân Diệu, lẫn Vũ Quần Phương trong một bài báo nhân kỷ niệm 50 năm làm thơ của Xuân Diệu, đều cho rằng sự tham gia cách mạng của Xuân Diệu có tính cách “tất yếu”. 

Một người rất thạo văn học Việt Nam và cũng rất yêu tác giả Thơ thơ, ông Nam Chi, trong một bài viết sau có in lại trong cuốn Xuân Diệu, con người và tác phẩm (H. 1987) đã phát hiện ra điều ấy và tỏ ý hoài nghi: “Nói rằng người này “tất yếu” cách mạng thì có nghĩa là người kia tất yếu phản động, vì bản chất phản động”. Sau khi dẫn ra hàng loạt ví dụ bất ngờ trong sự phân hoá của các văn nghệ sĩ tiền chiến trong thời đầu cách mạng và những năm kháng chiến, Nam Chi cho rằng cái công thức tất yếu nói trên là không thể vận dụng để lý giải các hiện tượng văn học.





Nhưng chữ tất yếu mà Nam Chi hoài nghi đó, lại là cái thần, cái hồn cốt chính trong lối suy nghĩ của chúng ta về xã hội, về lịch sử. Tư duy dân gian khái quát: ở hiền gặp lành có nhân có quả. Tư duy hiện đại chỉ nói khác đi một chút: ở hiền cũng có khi gặp lành mà cũng có khi không, có nhân có khi có quả, có khi không. Nói theo thuật ngữ của triết học, thì trong trường hợp thứ nhất (ở hiền gặp lành), người ta dừng lại ở quyết định luận máy móc, còn trong trường hợp thứ hai (ở hiền cũng có khi... cũng có khi...) người ta đã tiến sang một bước mới: quyết định luận xác xuất thống kê. Thế nhưng nói chung, trong cách lập luận của nhiều người nghiên cứu lịch sử văn học ở ta, kiểu quyết định máy móc nói trên vẫn chiếm vai trò chủ đạo. Các hiện tượng lịch sử văn học (một trào lưu, một tác giả hoặc một tác phẩm) thường được trình bày như một cái gì tất yếu phải xảy ra, mà không mấy khi làm người đọc bỡ ngỡ vì một sự sinh thành nảy nở kỳ lạ, tuồng như là ngoài quy luật và phải xem xét kỹ, thậm chí phải quan niệm lại về quy luật, thì mới thấy nó cũng rất hợp quy luật. 

Điều gì đã cản trở nhà nghiên cứu không cho họ trở thành nhà lịch sử? Chính là sự cả tin, tin rằng lịch sử là một cái gì rất sáng rõ, rất mạch lạc, rất thuận lôgích, lôgích thô thiển theo cách hiểu của họ, trong khi một điều kiện để hiểu lịch sử là phải giả định rằng ở đó nhiều khuất khúc, nhiều mờ tối, nhiều khả năng đánh lừa con người và nhà nghiên cứu phải luôn luôn lật đi lật lại vấn đề thì mới mong phần nào hiểu đúng được lịch sử. 

Ở chỗ này, những nhận xét của một nhà nghiên cứu lịch sử người Pháp là Marc Bloch (1886-1944) đối với chúng ta rất có ý nghĩa. 

Là người chuyên về sử trung thế kỷ đồng thời là một người yêu nước, đã chết trong trại tập trung của phát xít Đức --- M. Bloch từng khái quát, “sự bùng nổ của thất vọng và thành kiến, những hành động không được suy xét kỹ, những bước ngoặt bất thình lình trong đời sống tinh thần... những cái đó mang lại nhiều khó khăn cho những nhà lịch sử có bản năng quen dựng lại quá khứ theo sơ đồ của trí tuệ. Tất cả những hiện tượng đó đều tồn tại ở mọi thời điểm lịch sử... mà chỉ những sự xấu hổ ngu ngốc mới câm lặng không nói tới”. 

M. Bloch chê trách các đồng nghiệp của mình “Đọc những cuốn sách lịch sử hiện nay, có thể thấy nhân loại hiện ra như là hoàn toàn gồm những người hoạt động một cách lôgích trong họ không có một chút gì là bí mật”. 

Ông khẳng định “Chúng ta sẽ xuyên tạc lịch sử một cách nghiêm trọng, nếu luôn luôn và bất cứ ở đâu cũng quy nó về những mô-típ hoàn toàn tự giác.[2]





Cho đến nay, những ý kiến tương tự như của M. Bloch nói trên hầu như chưa được giới thiệu ở Việt Nam. Nếu chúng tôi không nhầm thì kiểu nhận thức đơn giản, máy móc không chỉ có ở những người nghiên cứu lịch sử văn học, mà ở cả những người nghiên cứu lịch sử ở ta nói chung. Trong tình hình đó, sự hạn chế của một số công trình nghiên cứu lịch sử văn học như chúng tôi trình bày ở đây, là hoàn toàn dễ hiểu, nhưng không phải vì thế mà cứ nên tiếp tục.









Không làm
nghèo di sản



Một trong những yêu cầu đặt ra đối với các ngành lịch sử văn hoá là tìm hiểu, phân tích cho thấu đáo những giá trị đã được các thế hệ đi trước sáng tạo, tìm ra mối liên hệ giữa các giá trị đó với cuộc sống hiện tại, lấy chúng làm giàu thêm cho con người hiện đại.





Nhưng nói một cách nghiêm khắc đây lại là khâu yếu nhất trong toàn bộ công việc tiếp thu di sản mà chúng ta đã làm trong thời gian vừa qua. Trên nguyên tắc thì ai cũng nói là phải trở về với dân tộc, phải trân trọng mọi thành quả của ông cha. Nhưng trên thực tế, thì những thái độ thô bạo tha hồ tung hoành. Kết quả là nhiều khi chúng ta hiện ra như những kẻ hẹp hòi đến cay nghiệt. Nhân danh những lợi ích trước mắt, các nhà nghiên cứu sẵn sàng lớn tiếng phê phán người này chỉ ra những hạn chế ở tác phẩm kia từ đó quyết định không công bố thơ Nguyễn Húc (theo sự tiết lộ của Huệ Chi), trù dập cả Chinh phụ ngâm lẫn Cung oán ngâm, gán cho Sơ kinh tân trang cái tội tày đình “con dao hai lưỡi”, xếp thơ văn Tự Đức và Tùng Thiện Vương vào tủ rồi tuyên truyền rằng đó là thứ thơ văn xa lạ với quyền lợi của nhân dân. Cũng do những thành kiến tai hại đó chi phối mà một thời gian dài, trừ Thạch Lam còn hầu như toàn bộ Tự lực văn đoàn bị đẩy vào bóng tối, một kiệt tác như Chùa đàn không làm sao được ló mặt trong Tuyển tập của Nguyễn Tuân, còn thơ Nguyễn Bính trong Tâm hồn tôi, một ngàn cửa sổMây Tần thì giống như số phận của người chị trongLỡ bước sang ngang “... Chị giờ sống cũng bằng không - Coi như chị đã ngang sông đắm đò”. May mà tình hình bung ra trong ngành xuất bản mấy năm nay gỡ lại hộ, nếu không rất nhiều báu vật trong kho tàng văn học dân tộc bị xếp xó, nhiều tên tuổi bị quên lãng, nhiều cuốn sách trở thành những kỷ niệm mà may ra lớp người đi trước mới biết là có!





Trên nguyên tắc, chúng tôi chia sẻ với ý kiến của Nguyễn Huệ Chi là phải lấy tiêu chí chủ nghĩa nhân bản để bổ sung cho tiêu chí chủ nghĩa yêu nước, ngõ hầu giải phóng cho khoa lịch sử văn học khỏi những hẹp hòi thiển cận hiện nay. Vả chăng cũng đã đến lúc bản thân từng khái niệm nhân đạo, yêu nước đòi hỏi một cách hiểu đa dạng cởi mở hơn. Một tác phẩm trong đó tác giả nói to lên rằng mình thương xót những người nghèo khổ đã đành là có tư tưởng nhân đạo. Nhưng nếu chỉ giới hạn chủ nghĩa nhân đạo trong một nghĩa cụ thể như vậy thì đã tự mình làm nghèo mình đi rất nhiều! Những bài thơ cuốn truyện có tham vọng trình bày kỹ lưỡng những khía cạnh tế nhị trong quan hệ giữa người với người, và phanh phui cho hết cái quanh co phức tạp trong cuộc đấu tranh giữa bóng tối và ánh sáng trong từng tâm hồn con người, những tác phẩm đó lẽ nào không được ghi vào bảng vàng của chủ nghĩa nhân đạo? Tương tự như vậy, yêu nước không chỉ là tham gia chống ngoại xâm, trong thực tế lịch sử dân tộc, chủ nghĩa yêu nước còn được bộc lộ ở nhiều hình thức khác mà hiện nay chúng ta tổng kết chưa hết. Bản lĩnh của một dân tộc không phải chỉ bộc lộ ở khả năng giữ gìn giang sơn bờ cõi ở đó các thế hệ nối tiếp đã sinh sống. Bản lĩnh một dân tộc còn phải được xem xét ở khả năng của dân tộc đó trong việc tìm ra cách sống hoà hợp với các dân tộc khác, tiếp nhận một cách thông minh những ảnh hưởng văn hoá ngoại nhập đó để làm giàu cho đời sống tinh thần của mình. Trên ý nghĩa ấy mà xét tất cả những đóng góp nhằm làm cho đất nước ngày một canh tân đổi mới, xã hội ngày một văn minh tiến bộ thực chất đều đáng được xem là hành động yêu nước thương nòi, cũng tức là đáng được khoa học lịch sử - trong đó có lịch sử văn học - ghi nhận đầy đủ.


    1991



(1 )Trong cả ba đoạn trích dẫn này, chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi



(2) Trích từ Ca tụng lịch sử bản dịch tiếng Nga, Nxb Khoa học, Moskva, 1973.






Lần đầu in Tạp chí văn học 1991,
số 3, 
dưới bút danh Vũ Tam Giang.In lại trong Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại
hóa văn học
2006 Phê bình và tiểu luận 2008















Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2015

Bàn thêm về sử nhân việc bỏ môn sử ở các trường phổ thông

Cả lời dẫn và bài viết dưới đây 

đã đưa trên trang FB của tôi 22&23-11-15.

Xin giới thiệu lại để các bạn  không dùng FB tiện theo dõi



Lời dẫn

Có nhiều việc trong xã hội hiện nay mọi người bàn một đằng cuối cùng những người có trách nhiệm lại quyết theo một cách khác.

Việc bỏ môn sử cũng vậy, ai cũng thấy là trái lè lè.

Song với một chút tâm lý A. Q. hoặc nói theo dân gian, “ đánh chẳng
được thì tha làm phúc”, tôi nhìn thấy cái lợi của việc này như sau.

Khi nhìn vào việc học sinh ngày nay chán sử, người ta chỉ quy trách nhiệm cho cách dạy sử trong nhà trường.

Nhưng tôi cho rằng cái lỗi chính ở đây là thuộc về nội dung môn sử mà
người ta đang dạy suốt từ tiểu học đến đại học cùng là các loại sách
tham khảo có tính phụ họa.

Nói nôm na thì với nội dung các bài sử
mà người soạn sách được phép viết và người giáo viên được phép dạy, có
đến thánh cũng không làm cho học sinh yêu môn sử được.

Trong các bộ sử đã viết mấy chục năm nay cũng có những phần rất tốt, học sinh rất cần biết , mọi công dân Việt cũng cần biết.

Nhưng lúc mang ra dạy chúng bị lẫn đi, bị lọt thỏm đi, giữa các kiến thức giả mạo khác.

Hàng giả hiện nay rất đa dạng.

Có khi không đầy đủ không toàn diện không nhấn mạnh cái đáng nhấn mạnh... cũng đã là giả rồi.

Rút cục, cái hy vọng qua môn sử như thế này góp phần vào việc đào tạo
những con người có học vấn có nhân cách những công dân yêu nước theo
nghĩa hiện đại và khoa học nhất của khái niệm yêu nước thời nay… chỉ là
ảo tưởng.

Mà trước mắt nhu cầu viết lại sử đến bây giờ vẫn chưa được đặt ra trong xã hội, chứ đừng nói là được chuẩn bị.

Bởi vậy, theo tôi dù rất đau lòng cũng có thể bảo nhau chấp nhận tạm bỏ môn sử.

Mục đích của việc này là tránh cho lớp trẻ phải học những kiến thức sai lạc.

Nhiều kiến thức sử ở nhà trường hiện nay chỉ có cái vỏ sử. Thực tế nó
là những điều mà người ta muốn nhồi vào đầu các em qua các môn công dân
giáo dục với cách hiểu cổ lỗ và thực dụng về mấy chữ “công dân” cũng như
mấy chữ “giáo dục” đặc trưng cho thời nay.

Vậy thà cứ để các em
học các môn mà chính các em cũng đã hiểu thực chất ấy, rồi đối phó thế
nào qua quýt cho xong, còn hơn là buộc các em lầm tưởng đó là những kiến
thức cần yếu thực sự.

Chấp nhận bỏ sử ! Trong việc giáo dục con em, đã bao chuyện khác chúng ta bất lực, chứ có phải riêng chuyện sử này đâu.





NHỮNG VIỆC LÀM THÌ RẤT KHỔ, 
KHÔNG
LÀM THÌ SẼ KHỔ HƠN






Cách đây ít lâu tôi từng khuyên các gia đình nghèo là trong tình hình
hiện nay nên lo cho con học xong trung học cơ sở rồi chuyển đi học nghề,
còn hơn là học lên cao.

Đề nghị của tôi lần này cũng ở dạng tương tự.

Câu hỏi còn lại: sau đó ta phải làm gì, chứ chẳng nhẽ lại buông xuôi ?

Suy đi tính lại, tôi thấy hiện nay chỉ còn một cách là cả xã hội lo
học lại sử. Học ở đâu? Học ở các bộ sử mà ông cha xưa đã viết từ Đại
Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục, Việt sử tiêu án
…của các sử gia Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ .. tới các bộ sử
viết trong thời Pháp thuộc như Việt sử yếu của Hoàng Cao Khải, Việt
Nam sử lược
của Trần Trọng Kim.

Còn nhớ những năm chống Mỹ ở Hà
Nội ông sếp cao cấp trong ngành tuyên truyền là Hoàng Tùng thường cũng
vẫn nói với cánh nhà văn nhà báo chúng tôi, có việc gì cần vẫn phải dùng
bộ Việt Nam sử lược chứ các sách mới viết có dùng được đâu.

Bản
thân tôi làm nghề nghiên cứu văn học, trong hai chục năm gần đây, trong
khi tìm đọc các bộ sử VN do các tác giả nước ngoài viết, mới ngã ngửa
người vì ngạc nhiên hóa ra họ cày xới các bộ sử cũ của ta rất kỹ.

Nói ra thì có vẻ nghịch lý: tôi học người ta cách đọc lại ông cha mình. Thế đấy!

Dần dà tôi hoàn toàn tin rằng để hiểu người Việt, cuốn sách cổ điển mà
thế hệ trẻ cần đọc số một, không phải là Truyện Kiều mà là Đại Việt
sử ký toàn thư
.

Chắc có bạn đọc thắc mắc: dù là sách đã dịch từ
chữ Hán cổ sang chữ quốc ngữ song làm sao mà đọc được cuốn toàn thư
ông vừa nói tới đó.

Tôi sẽ bàn về chuyện này, trong một dịp khác. Hôm nay hãy mời  các bạn đọc lại một bài của tôi

  đưa trên mạng Thời báo Kinh tế Sài gòn 20- 10 -2011

http://www.thesaigontimes.vn/Home/giaitri/tanvan/63862/







CẦN MỘT THỨ SỬ HỌC KHÁC


Từ đầu thế kỷ 20, một
trí thức nổi tiếng là Hoàng Cao Khải trong cuốn Việt sử yếu (viết
năm 1914) đã nhận xét rằng bao đời nay, người Việt mình thường tỏ ra thạo sử
Trung Quốc hơn sử Việt. Từ các sĩ phu và quan lại, tình hình này lan ra đến
đông đảo dân chúng.


Có thể giải thích hiện
tượng này bằng chế độ thi cử ngày xưa. Người ta chỉ cho thi Bắc sử. Và các
trường học - dù là chốn Quốc tử giám của triều đình hay lớp học tự phát của một
ông đồ nghèo ở một làng quê hoang vắng - đâu đâu người Việt cũng hình dung cuộc
đời này qua các trang sử từ đời Trụ Kiệt đến đời Đường Tống...


Trong khi đó thì bên
phần Nam sử, một vài bộ như Toàn thư, Cương mục, Việt sử tiêu án, Lịch
triều tạp kỷ..
. mà ngày nay ta tự hào, thật ra là quá ít ỏi và chưa bao giờ
được mang lưu hành rộng rãi và đưa ra giảng dạy.


Đến thời chúng ta, tình
hình lại đi theo một hướng khác, nhưng kết cục vẫn như xưa.


Những bộ sử thời nay do
Nhà nước chỉ đạo biên soạn. Sự định hướng về dân tộc tỏ ra quá mạnh, thậm chí
tôi còn muốn nói thẳng là lâu nay chúng ta chẳng chú ý gì đến lịch sử các dân
tộc khác, và đó là một nhược điểm, nó hạn chế ngay sự hiểu biết của chúng ta
khi muốn quay về nhận diện chính mình.


Thế nhưng tại sao thanh
thiếu niên cũng như nhiều người lớn tuổi vẫn thuộc, và qua phim ảnh, thấy thích
sử Tàu hơn sử ta?


Nhiều người cho rằng sở
dĩ như vậy là vì người Trung Quốc có nhiều tiền hơn, làm ra những thước phim
mùi mẫn hơn.


Không, không phải vậy,
hoặc lý do chủ yếu không phải vậy.


Cái lỗi trước hết là ở
chính những cuốn sử đã viết, trong đó hạt nhân là khái niệm sử mà chúng ta đang
sử dụng.


Ở những trang sử Trung
Quốc, không chỉ có những ông vua, khi là minh quân khi là bạo chúa chuyên chế,
như Càn Long, như Tần Thủy Hoàng, mà còn có Tào Tháo gian hùng, Bao Công hiểu
rõ tình đời đen trắng, Kỷ Hiểu Lam chăm chỉ học hành, Bạch Cư Dị sau khi đổi
việc quan được dân chúng lưu luyến đưa tiễn... Đủ loại sắc thái nhân văn khác
nhau nối tiếp hiện ra trong bộ mặt con người Trung Hoa, được vẽ trong những
trang sử ấy. Và đằng sau đó là hình ảnh của cả xã hội trong suốt chiều dài thời
gian mà mặc dù chúng ta khi thì căm ghét, khi thì ghê rợn, song bao giờ cũng
thấy hấp dẫn, đã biết rồi còn muốn biết nữa.


Quay trở lại với những
gì được viết trong các bộ sử Việt Nam, mà khuôn mặt tiêu biểu thì thấy rõ nhất
trong các sách lịch sử đang dùng ở các trường phổ thông và đại học. Đây tôi
không nói về những gì đã xảy ra trong đời sống lịch sử ngàn năm của dân tộc,
tôi chỉ muốn nói cái nó còn được ghi trong sách vở và truyền tụng giữa các đời.


Ở những trang sử ta viết
cho ta, trên cái nền là một ít sự kiện nghèo nàn, không có những con người mà
chỉ có những hình nhân với một vài lời lẽ, hành động đôi khi cũng ấn tượng,
nhưng quá nghèo nàn, đơn sơ. Đọc những trang viết khô khan cằn cỗi đó, thật
không hình dung ra trong hàng chục thế kỷ qua, cộng đồng chúng ta đã ăn ở, sinh
hoạt ra sao, quan hệ với nhau thế nào. Lại càng không thể từ đó rút ra những
gợi ý về kiếp làm người của mình hôm nay. Bởi những bài học mà người viết sử
gửi kèm chỉ là những kiến thức chính trị nông cạn, hời hợt, đến với người ta
theo lối áp đặt gượng gạo.


Sức phản cảm mà nó gây
ra trong lớp trẻ thật ra là điều nhiều người đã thấy từ lâu rồi, chẳng qua tất
cả cố tình làm ngơ vì biết rằng vô phương cứu vãn.


Cái lỗi không phải chỉ
là do mấy người soạn sách giáo khoa. Cái lỗi ở đây là của những người làm sử.
Và suy đến cùng là sự hạn chế, nếu không muốn nói là nghèo nàn, kém cỏi trong ý
thức lịch sử của cả xã hội.


Vấn đề là ở tư duy lịch
sử của người Việt.


Chúng ta là một cộng
đồng mải chinh chiến hơn là xây dựng. Trong quá khứ, chúng ta dành quá ít thời
gian và tâm trí để suy nghĩ về chính mình, tìm sự thật về chính mình... Đó
không chỉ là tình hình có thật trong cuộc sống của người Việt từ lúc khởi
nguyên và kéo dài suốt vài trăm năm gần đây, mà cũng là của thời đương đại.


Trong hoàn cảnh nước sôi
lửa bỏng của chiến tranh và cách mạng, nền sử học vốn rất còi cọc yếu đuối hôm
nay chỉ dồn sức vào làm cho được nhiệm vụ trước mắt là giáo dục mọi người sẵn
sàng ra trận, chứ sức đâu mà đáp ứng nổi cái nhu cầu tự nhận thức, cũng tức là
nhu cầu soi lại quá khứ để xác định tương lai.


Ngay trong cái phần tốt
đẹp nhất của nó, nền sử học mà chúng ta có cho đến hôm nay là một thứ sử học
của tồn tại mà không phải là một thứ sử học dành cho một cộng đồng muốn phát
triển. Tóm lại là vậy.


Cái việc lớp trẻ hiện
nay từ chối sử học thật ra có một tác dụng tích cực.


Đã đến lúc chúng ta phải
nghĩ tới một thứ sử khác, sinh động hơn, có hình ảnh con người nhiều hơn và
nhất là đáp ứng nhu cầu của tương lai mạnh mẽ hơn.




Nghịch lý cuối cùng chỉ
là trong khi những đòi hỏi đã cấp bách lắm rồi, thì những điều kiện cần thiết
không biết bao giờ mới hội tụ đủ.














Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015

Trong sự suy đồi của nghề thầy, cả xã hội cùng có lỗi


 Trên báo Tuổi trẻ số ra 4-11-15  có bài viết của một giáo viên mang tên Còn đâu "thương cho roi cho vọt"?


Lâu nay ta thường nghe những
lời xã hội ca thán các giáo viên. Rằng thời nay không còn những người thầy như
xưa. Đờì sống càng đi lên phẩm chất những người đứng trên bục giảng càng sa sút.


Trước các lời bình luận ấy,
không thấy các thầy kháng cự trở lại gì cả - đây tôi nói theo chỗ tôi đọc được.
Có vẻ như các thầy trong bụng cũng chấp nhận.




Nay đọc một bài báo như Còn đâu "thương cho roi cho vọt"? mới thấy mọi chuyện không đơn giản.


Có một đoạn trong bài được đóng
khung như sau:







Ôi
nghề giáo! Cái nghề được coi là cao quý trong tất cả các nghề, giờ cũng chỉ
là cái cần câu cơm... Không có gió, không có khói mà khóe mắt cay cay. Chẳng
biết ngoài kia có ai đồng cảm với tôi không, có ai đó cũng đang trăn trở, có
ai đó cũng đang mỗi ngày đến lớp cho xong trách nhiệm rồi về?


Tôi sẽ không giới thiệu tiếp bài
viết này, mời các bạn đọc ở địa chỉ


 Còn đâuthương cho roi cho vọt” - Tuổi Trẻ Online

Chỉ nghĩ hóa ra nghề thầy cũng lắm cái khổ.

Rồi lan man suy luận, khi cảm thấy nỗi khổ nỗi bất công sẽ kéo dài không biết đến đâu là cùng cũng là lúc người ta dễ buông thả, dễ để cho những hư hỏng lôi kéo.




Sau những đồng cảm như vậy, tôi muốn chúng ta cùng tự hỏi mình:Tại sao nghề thầy suy đồi đi như vậy? 

Ta không thể đòi hỏi ở những người làm nghề này quá nhiều. 

Suy cho cùng, có phần cái lỗi ở họ, nhưng có phần lỗi của hoàn cảnh chung quanh nữa.  

Chính ra là xã hội đã buộc con người ở mọi ngành
nghề khác nhau  trong xã hội hôm nay hư hỏng. 


Quan hư, dân hư, trí thức hư, đến cả lưu manh côn đồ trong xã hội ta  cũng đổ đốn hơn so với các loại lưu manh côn
đồ trong xã hội cũ. 


Nghề thầy cũng không thoát khỏi cảnh đó.



lần tôi đã viết về chủ đề trên trong bài dưới đây và đưa vào tập Nhân nào quả ấy (2002) mời các bạn đọc lại. 


Tôi viết về sự suy đồi của giáo dục chứ không riêng về nghề thầy, nhưng từ giáo dục mà ta hiểu về những người làm nghề. 

Bài viết từ hơn chục năm trước có lẽ vẫn đúng với tình hình hôm nay.


    CHÍNH NHỮNG
NGƯỜI ĐẶT HÀNG CÓ LỖI TRƯỚC.





       Nếu có ai hỏi trong số các sự kiện của
năm 2002 có những chuyện gì đáng nhớ nhất, thì về phần mình, tôi nhớ ngay tới
câu chuyện của một quan chức của Bộ giáo dục. Ông này nhân trả lời một cuộc phỏng
vấn về chất lượng đào tạo, nói rõ ra rằng thực ra hàng năm chỉ khoảng độ ba chục
phần trăm học sinh các lớp của trường phổ thông đáng được lên lớp và đáng được
công nhận là đã
  tốt nghiệp, chứ không phải
những con số tám chín mươi phần trăm (thậm chí không ít nơi trăm phần trăm) như
hiện nay.


     Từ lâu, bọn tôi đã biết rằng trình độ dạy và học ở ta rất
kém, các sinh viên đại học ra trường khó kiếm được việc làm, căn bản là vì
không theo kịp trình độ sản xuất hiện thời. 


     Riêng trong phạm vi bậc học phổ thông, từ
lâu chúng tôi đã biết rằng nhà trường bây giờ cho điểm quá dễ, trẻ con ở nhà
chúng thường gọi là điểm của thày cô rất rẻ.


      Mặc dầu vậy, mọi người vẫn  nghĩ rằng có kém thì giáo dục ta cũng kém một
chút thôi, và  đã có sự thông minh ham học
sẵn có của dân mình bù lại. Nay hoá ra toàn ảo tưởng ! Kể cả trong trường hợp  con số mà vị quan chức kia nêu ra không hẳn
đã chính xác 100%, thì tôi vẫn tin rằng, trên nguyên tắc, ông đã nói lên sự thật.  


    Tuy nhiên, người ta lại càng thấy buồn hơn
khi nghe vị quan chức Bộ giáo dục nói trên cho biết  khả năng giải quyết tình hình hiện nay. Theo
ông,  tình trạng trên sẽ không dễ khắc phục,
nói nôm na là không thể giải quyết nổi, vì phụ huynh học sinh thời nay có tâm
lý con cái đi học thì phải giỏi giang, chứ không ai chấp nhận đến 60-70 % ở lại
lớp.


    Cả lần này nữa, vị quan chức kia đã nói
đúng.


    Xin 
tạm phác ra sơ đồ một cách 
nghĩ cách làm về  giáo dục
  phổ biến trong xã hội  như sau:


   ---Lấy lý do ai cũng có quyền được đi học,
chúng ta tổ chức việc học  một cách tuỳ
tiện, trường không ra trường lớp không ra lớp cũng cứ mở,  thầy không ra thầy cũng cứ cho dạy. Trong
hoàn cảnh kinh tế còn yếu kém, chẳng những cơ sở vật chất các trường ở ta khó
khăn, mà chương trình học và nói chung mọi chuẩn mực ở nhà trường cũng bị hạ thấp.


   --- Đáng lẽ phải coi tình trạng nói trên là
đáng xấu hổ, sớm muộn phải tìm cách  khắc
phục thì, trong sự bề bộn của công việc hàng ngày, ta tự ru ngủ rằng mọi chuyện
trong giáo dục đang rất bình thường, và nghĩ ra đủ mọi lý do để chống chế.


     Nếu không có chuyện con cái tốt nghiệp phổ
thông khó vào đại học, hoặc ra trường không cần chạy tiền vẫn đàng hoàng gia nhập
vào bộ máy quan liêu ở các cơ quan nhà nước như thời bao cấp, thì chắc chẳng ai
thắc mắc chuyện chất lượng đào tạo làm gì cho mệt (!) 


   --- Chẳng những chấp nhận một cách dễ dãi,
chúng ta còn thường đòi hỏi quá nhiều ở kết quả học hành của lớp trẻ.


      Những đòi hỏi ấy có một nguyên nhân sâu
xa: sau những năm chiến tranh, bắt đầu nhìn ra thế giới, ai cũng thấy nản vì
trình độ kinh tế mình quá yếu kém. Chỗ để bấu víu để hy vọng chỉ còn là một cái
gì thuộc về đời sống tinh thần, cái phần thông minh sáng láng của con người. Phải
nêu cao cho được tiềm năng trí tuệ của dân 
mình ! Bằng cách nào cũng được miễn là con em mình phải có tiếng là giỏi
!


       Trước nhu cầu  thậm vô lý ấy, các cô giáo thày giáo đã có
cách thích ứng kịp thời. Tức là chẳng có nghiên cứu và cải tiến gì lắm cho phiền
phức, mà chỉ cần “dong công phóng điểm “, làm sao cho có nhiều học sinh lên lớp
học sinh tốt nghiệp trong các kỳ thi (cũng như ngành giáo dục có thêm nhiều tiến
sĩ với lại giáo sư) là được, còn chất lượng đến đâu, có theo kịp trình độ giáo
dục tiên tiến trên thế giới hiện nay cũng như có đạt được những chuẩn mực quốc
tế hay không -- không cần biết. 


      Thích nghe thành tích đang là căn bệnh có
ở nhiều người, chứ không chỉ có riêng ở các bậc làm cha mẹ.


      Hàng ngày chúng ta đã khổ  rất nhiều vì lối làm ồn rầm rĩ trước chút việc
mọn mới làm được.


     Thế nhưng ở khu vực nào cũng vậy, luôn
luôn có một câu hỏi có thể đặt ra: có phải là xã hội vô can trước tình hình ấy
? Hay là sở dĩ tình trạng làm láo báo cáo hay cứ  hồn nhiên phát triển,là vì trong thâm tâm
chúng ta thích nghe chúng, chỉ chấp nhận chúng, thậm chí nói cho đầy đủ là ngấm
ngầm  khuyến khích người ta báo cáo giả để
cùng an lòng ?


      Nói cách khác, từ những thiện chí cùng những
mong mỏi chính đáng, cuối cùng chúng ta tạo ra đủ điều kiện cần thiết để dẫn tới
những kết quả tai hại.


      Trò làm hàng không đủ chuẩn mực trong
giáo dục như thế này,  không gì khác,
chính là đầu mối để đào tạo nên một loại người 
mà nếu đánh giá cho nghiêm khắc 
phải gọi là ở dạng phế phẩm: những học sinh kém khi lên đại học vẫn chỉ
là những sinh viên kém ; rồi khi ra trường chỉ trở  thành những người lao động có lối nghĩ tầm
thường, tay nghề xoàng xĩnh, tinh tướng xoay xoả kiếm chác thì giỏi, mà làm việc
theo nghĩa thực thụ thì không biết.


     Chẳng những thế, cái tâm lý chung sống với
các giá trị  giả, nhắm mắt  bằng lòng với của giả, kiêu ngạo một cách vô
lối, phổng mũi trước những lời khen xã giao, ngại ngùng sợ hãi không dám nhìn
thẳng vào sự thực chỉ vì chúng quá cay đắng... sẽ càng có dịp nẩy nở và di hại
đến các thế hệ tiếp nối. ( Xin nói thêm là cách suy nghĩ chỉ cần ta biết với
ta, bất chấp chuẩn mực
chung đang ngự trị  ở nhiều ngành nghề lĩnh vực, đến mức một nhà
nghiên cứu xã hội học gần đây phải đưa ra khái niệm “chủ nghĩa coi dân tộc mình
là ngoại lệ “ --- xem bài của Mai Huy Bích 
trên tạp chí Xã hội học số 4 (76) -2001. Tạp chí này là cơ quan
nghiên cứu lý luận của Viện Xã hội học thuộc Trung tâm khoa học xã hội và nhân
văn quốc gia ).


       Từ chuyện viết sách giáo khoa đến chuyện
tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi, từ chuyện chấm điểm đến chuyện tổ chức các kỳ
thi, rồi cơ sở vật chất của nhà trường, rồi lương bổng của giáo viên... chưa
bao giờ công việc giáo dục được báo chí mang ra bàn bạc nhiều như lúc này. Đôi
khi chỉ vài chi tiết lặt vặt trong cuốn sách giáo khoa lớp 1 cũng tốn không biết
bao nhiêu giấy mực.


      Nhưng theo tôi, cái đáng bàn nhất hiện thời  là quan niệm của chính mỗi người chúng ta về
giáo dục, có sòng phẳng với nhau thì mọi chuyện mới có hướng để gỡ dần.


      Đó là liệu  ta có chấp nhận rằng kinh tế non kém  thì việc học hành của con em ta cũng không thể
bằng người  và phải có một sự tính
toán rất thông minh, một cách nghĩ  rất nghiêm túc thì giáo dục mới khá được ?


      Ta có nhất quyết phấn đấu để có một nền
giáo dục đạt tiêu chuẩn quốc tế, hay chỉ nói hội nhập cho phải phép, thích “yên
ngủ “ trong  tình trạng kém cỏi  của mình rồi tự  đặt ra những tiêu chuẩn riêng để lấy lòng
nhau, cốt sao cả hội cả làng cùng vui vẻ?


      Bao giờ thì ta mới  thấy sợ trong cái việc hàng năm  cho “xuất xưởng” đều đều những “mặt hàng” ---
ở đây là những  con người ---không đủ
tiêu chuẩn và thản nhiên để họ đi vào xã hội tương lai  như hiện nay ?












Thứ Bảy, 14 tháng 11, 2015

Dân nhập cư Nga đầu thế kỷ XX, dưới con mắt một nhà văn Pháp


 Sáng thứ bảy 17/10 /2015  tại 9B, Phạm Ngọc Thạch, Q.3 TPHCM đã diễn ra
buổi CÀ PHÊ GẶP GỠ & ĐỐI THOẠI, “cà phê” với TS Phạm Văn Quang, giảng viên khoa ngữ văn trường ĐH Khoa học xã hội và nhan văn TP. HCM ,
 chủ đề: “Suy tư về thời kỳ hiện tại”.



Tôi không có điều kiện để dự buổi tọa
đàm này, nhưng được một bạn trẻ có mặt cho biết, một trong những điều diễn giả
quan tâm là mối liên hệ giữa sự thay đổi trong địa điểm cư trú song song
với  sự thay đổi trong tư duy con người hiện
đại.


Trong thư mời mà tôi nhận được, còn có
đoạn viết mở ra một viễn cảnh rộng rãi hơn:


Thế
kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ chúng ta chứng kiến một thế giới chuyển di
chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Chúng ta coi đó như là đặc trưng của xã
hội thời kỳ hiện tại, và thân phận con người thường trực bị đặt nằm bên lề của
những cơ cấu thiết chế chính thống, để bước vào trải nghiệm một hành trình lưu
lạc. Như vậy, bên cạnh những đặc trưng khác như hiện tượng hủy truyền thống,
hiện tượng bùng phát của toàn cầu hóa và tiêu thụ, thì tình trạng lưu vong-dịch
chuyển góp phần phác họa bức tranh tổng thể của xã hội nhân loại thời kỳ hiện
tại.




Vấn đề thật quá thú vị, không phải nó
chỉ có liên hệ tới cuộc khủng hoảng di cư ở châu Âu bắt đầu từ tháng 10 vừa
qua, mà xem ra còn liên hệ với các vấn đề thuyền nhân VN sau 1975 và lùi về xa
nữa,  các cuộc di dân từ Đông Âu và Nga
sang các nước Tây Âu đầu thế ký XX.


Trước mắt tôi nhận ra những gợi ý
của  nó liên quan tới một chủ đề mà lâu
nay văn học thế giới hiện đại đã đặt ra: chính là nhìn vào nhóm người di cư,
người ta có thể nhận ra đặc điểm của cái cộng đồng lớn mà họ đã từ bỏ, cái dân
tộc mà mãi mãi họ là một bộ phận.


Có một cách để hiểu về một giống cây là
mang nó trồng vào một vùng đất mới, với điều kiện sống và trước tiên là điều
kiện khí hậu mới.


 Với các dân tộc cũng vậy. Trong lịch sử,
không ai có ý thức làm chuyện này, không mấy ai chủ động làm việc di cư chỉ để hiểu mình như thế nào; nhưng khi hiện tượng đã từng xảy ra, tại
sao ta không nắm lấy nó mà nghiên cứu.


Tôi đã có lần may mắn chạm tới đề tài
này khi biên soạn và viết lời giới thiệu cho cuốn tiểu thuyết
Đêm của những ông
hoàng do nhà văn Ngô Quân Miện dịch.


 Lần ấy, một cách ngẫu nhiên, tập bản
thảo này rơi vào tay tôi.  Hình như sách
là do  dịch giả tự động gửi tới nhà xuất bản Hội nhà văn từ lâu.
Nhưng vì là "lai cảo", chứ không phải sách do  biên tập viên lên kế hoạch, nên nó bị ghẻ
lạnh.


Trong lúc thiếu bản thảo, tôi tình cờ
đọc và thấy được, nên đề nghị cho in. Để thêm sức thuyết phục cho cuốn sách,
tôi nhận lấy cái việc là tìm hiểu thêm về các vấn đề đặt ra qua cuốn sách, từ đó phát biểu vài cảm nghĩ của một người độc giả Việt.


Bài viết sau đây bạn đọc sẽ đọc đã hình
thành như thế.


Hôm nay đây, giới thiệu nó với các bạn
trên mạng, tôi chỉ muốn đề đạt thêm một vài ý nhỏ :


-- lâu nay ngành dịch ở ta vận hành khá đỏng đảnh và tùy tiện. Nghe nói ở nước ngoài đang có những
cuốn sách này nọ mới nổi tiếng, mới được lăng-xê, ta liền tìm dịch cốt để tạo ra
cảm tưởng chúng ta cũng đang bám sát
văn học nước ngoài, nhất là văn học phương Tây.  


-- nay lối làm việc ngẫu hứng này cần
phải thay bằng sự nghiên cứu lâu dài, mà trước tiên là nghiên cứu các vấn đề
của xã hội ta, từ đó đặt hàng cho bộ phận dịch. Công tác nghiên cứu và giới
thiệu văn học nước ngoài phải bao hàm không chỉ những tác phẩm  có liên quan tới tình hình trước mắt mà cả
kho tàng tác phẩm lâu đời của họ, những tác phẩm của họ ngày hôm qua mà với ta
nay vẫn là mới.


-- nếu như đặt vấn đề một cách toàn diện
như vậy, ta sẽ tránh được lối làm việc một cách chụp giật, đồng thời có cách xử
lý đúng với những tác phẩm dã dịch. Những tác phẩm dịch kém dịch ẩu cần phải
làm lại. Còn những dịch phẩm tốt cần phải tái bản để giúp cho các bạn đọc trẻ
tuổi có cơ hội tiếp cận với chúng.








                                                  QUÁ KHỨ KHÔNG DỄ TỪ BỎ








Lời giới thiệu viết cho cuốn Đêm của những ông hoàng


Nxb Hội nhà văn,2003     





http://songhuong.vn/module,product/detail,cat/file,detail/type_id,1/alias,joseph-kessel/index.html 








I


   Helen ( tên
gốc là Elena Borisovna ) --  một cô gái
Nga dòng dõi quý tộc -- theo gia đình lưu vong trôi nổi trên đất Pháp đầu thế
kỷ XX, ở đó cô cùng với người chị tạm thời 
trú chân  trong một nhà trọ nghèo
và phải làm những con búp bê để kiếm ít tiền mọn rau cháo qua ngày. Nhưng cuộc
đời vẫn chưa buông tha họ. 


Chỗ chị em Helen sinh sống cũng là khu vực tá túc của
rất nhiều người Nga nhập cư và bởi vậy các cô gái không thể không can dự vào nhiều sinh hoạt cùng các đồng bào
vốn cũng trong cảnh lưu lạc. 


Kết quả các cô bị 
bật ra khỏi cái nơi trú ngụ yên lành để lao vào một trường đời quay
cuồng hỗn loạn hơn. Người chị  đi làm tại
một bệnh viện. Còn Helen nhẫn nhục đi
hát ở một quán ruợu. Trong cảnh cơ nhỡ, cô phải vượt lên trên bao thách thức,
kể cả có những lúc phải cựa quậy phá phách tàn tệ. Song vẫn không thoát khỏi kiếp
làm thuê, không thoát khỏi lầm lạc. Cho đến lúc được một đồng hương khác - một mugic Nga nhờ chăm chỉ làm ăn có tiền
cứu  chuộc - , ông này hứa  đưa cô đi về những miền đất lạ châu Phi. Đời Helen từ ấy mới như được làm lại.      


      Trên đây là mấy câu tóm tắt cuốn truyện Đêm của những ông hoàng(1927), tác giả J. Kessel (1898-1979),
mà tôi đọc được qua bản dịch của Ngô Quân Miện.


     Nói cho đúng ra, giữa vô vàn nhà văn lớn
của thế giới hiện đại  thì tác giả J.
Kessel  mặc dù có cái danh khá to là viện
sĩ Viện hàn lâm Pháp, song cũng chỉ là một tên tuổi tạm gọi là thường thường bậc trung. Các sách giáo khoa văn học không dành cho
ông những chương riêng. Các bộ từ điển văn học chỉ nhắc tới ông một cách sơ sài.


     Vả chăng, nếu có nói về ông, người ta
thường  kể ra những cuốn sách khác như Phi hành đoàn như Gió cát... chứ ít người nhắc tới
Đêm của những ông hoàng. 


      Mặc dầu vậy, tôi vẫn nghĩ rằng đây là một
tiểu thuyết  hay, đáng được những bạn đọc Việt Nam đang bận rộn để công
tìm đọc, ít ra là trên hai phương diện: thứ
nhất
, nó giúp  cho chúng ta hiểu thêm
về dân tộc Nga và những con người Nga vốn có một mối quan hệ với người Việt Nam
trong lịch sử ngót một thế kỷ nay. Và thứ
hai
, nó mở ra cho  chúng ta một cơ
hội để  hình dung thân phận của những
người nhập cư vốn là một hiện tượng lớn trong thế giới đầy xáo trộn 
như thế giới hiện  đại; hiện tượng
này cũng để lại một dấu ấn rõ rệt trong đời sống văn hoá của thế kỷ XX với ý
nghĩa nó tạo ra những mảng sáng tác có sắc thái hỗn hợp kỳ lạ, vui  buồn hoà trộn, hào hứng  bi thảm xen kẽ cạnh nhau, theo những dạng
thức  trước nay chưa ai hình dung được.


 


II


    Nói kỳ lạ thì dân tộc nào trên thế giới
cũng kỳ lạ song người Nga có lẽ là một trong những dân tộc kỳ lạ bậc nhất. Cuộc
sống chìm sâu trong giá rét. Con người chìm sâu trong đời sống nội tâm. Tính cách pha
trộn nửa Âu nửa Á nửa văn minh nửa hoang dại. Luôn luôn mơ t­ưởng vư­ơn ra với thế giới hiện đại với ánh sáng như­ng
lại  luôn bị cái quá khứ trung cổ níu
kéo... Mà làm sao khác được, cái quá khứ ấy lại có vẻ đẹp đẽ hào hùng riêng vẻ
kiêu hãnh riêng. Nếu xem người Nga như một variant
(tạm dịch là một biến thể, một kiểu tồn tại ) của nhân loại, thì  variant
này quá sắc nét  và đầy ấn tượng, nó là
một ví dụ tốt giúp cho người ta hiểu những cái hay cái dở của con người, bất kể
là người của dân tộc nào.


      Charles De Gaulle, một trong những nhân
vật lớn của lich sử Pháp thế kỷ XX, người có thể coi như hiện thân của chủ
nghĩa dân tộc Pháp,  từng có lần viết : Chỉ
có các dân tộc và các cá nhân là vĩnh viễn tồn tại
. Ý ông muốn nói những
đặc tính làm nên một dân tộc là một cái gì rất bền vững. Được hình thành trong
những điều kiện cụ thể, mỗi dân tộc cũng như mỗi con người thường có những nét
độc  đáo kỳ dị mà một lần hình thành thì
sẽ không gì làm cho phai nhạt, tức không sao sửa chữa nổi. Bởi vậy nhìn vào
khoa học xã hội trên thế giới hiện nay, người ta thấy ngoài những  bộ môn cụ thể (lịch sử, địa lý dân tộc học
xã hội học tâm lý học v..v..) lại còn có lối nghiên cứu tổng hợp về từng dân
tộc tạo nên những ngành kiểu như Ấn độ học, Trung quốc học, Nga học...


     Có thể là
những liên tưởng  đã kéo tôi đi quá xa,
song thú thực là  đọc Đêm của những ông hoàng tôi cứ loay hoay
trở lại với những ý tưởng nói trên, bởi lẽ ở đây, con người Nga  được Kessel khắc hoạ rõ nét quá, và có thể
xem như những tài liệu bổ ích cho những ai muốn hiểu người Nga và  đi vào môn Nga học chúng ta vừa nói. Những
ông bác sĩ quen sống với những tư tưởng cao xa phải đi lái xe độ nhật. Những
ông ký giả loại xoàng lo in báo xong thì đi bán rong, ấn những tờ báo tiếng Nga
mình viết vào tay các đồng bào cũng nghèo như mình. Các cô gái di-gan mặc những
bộ váy áo sặc sỡ đi hát ở các cửa hàng và nhận chuốc rượu cho khách lấy tiền
thưởng. Những ông hoàng ăn tiêu theo kiểu bốc giời, đến lúc thất thế chuyên đi
gác cửa hoặc bưng bê thức ăn  song vẫn giữ
lối xài sang, sẵn sàng xỉa ra đồng tiền cuối cùng để chi cho bữa tiệc vui còn
như ngày mai sống thế nào không cần biết. Cộng đồng lưu vong nào thì cũng có
rất nhiều kiếp người xiêu vẹo như vậy, nhưng hình như  với người Nga, trong hoàn cảnh sống trên đất
Pháp  và có được chút  tự do thảm hại, những mẫu người ấy trở nên
hoàn chỉnh hơn bao giờ hết.


   Và ra
chất Nga, đúng tính cách Nga nhất là
trường hợp nhân vật Helen.


   Sẵn một trái
tim nhân hậu song cô gái này lại bị bao thành kiến chi phối. Dễ bị kích động.
Không biết tính toán. Tự trọng một cách quá mức. Vội vã hứa hôn với một thanh
niên đau ốm trong khi chả hiểu  gì mà chỉ
vì thương hại cậu bé. Cam tâm để cho một ông hoàng hết thời chiếm đoạt chỉ vì
tìm thấy trong người kỵ sĩ ấy một hình ảnh hào hùng, và mặc dầu không yêu thậm
chí biết hết tính cách thô lỗ của anh ta, nhưng 
khi đối tác bị tai nạn thì nhận
lấy việc cứu giúp. Luôn luôn sáng suốt nhưng cũng luôn luôn sai lầm và dễ dàng
trượt dài trong những cơn bốc đồng ngẫu nhiên... Helen là thế, dù có tâm
hồn, lại có tài nữa, nhưng hình như cô không biết sống.
Cô gợi cho  người ta cảm giác  kỳ cục, mọi hành động và trước tiên là cách suy nghĩ của cô vừa bất ngờ như
không ai có thể đoán trước, lại vừa hoàn toàn phù hợp với con người cô, cái
dòng máu Nga mà cô mang trong mình, chính những đau khổ mà cô tự chuốc lấy kia
đã là nguồn gốc tạo nên sức sống kỳ lạ mà có lẽ chỉ những người phụ nữ Nga mới
có.


    Ở đây, đọc
Kessel mà tôi như được trở lại với những
trang sách của Tolstoi, của Dostoievski; trong một nhân vật như Helen tôi như bắt gặp cả Natasa trong Chiến tranh và hoà bình lẫn Sonia trong Tội ác và trừng phạt, Nastasia Filippovna trong Chàng ngốc... Những nét tính cách
Nga  mà các bậc thày cổ điển đã dày công
khắc hoạ như một lần nữa được tái tạo qua ngòi bút của Kessel, và chính trong
một hoàn cảnh có vẻ như không điển hình,
cái phần tinh chất trong tính cách ấy 
lại  có dịp bộc lộ rõ rệt hơn bao
giờ hết.





III


        Cái hoàn cảnh thoạt nhìn có vẻ như không
điển hình, nhưng lại là điều kiện tốt nhất để các nhân vật bộc lộ tính cách ở
đây, chính là hoàn cảnh lưu vong mà họ đang sống.


      .... Có những cuốn sách chỉ được nghe kể mà
sao mình cứ  phải nhớ mãi về nó và thầm
ao ước có ngày được đọc nó. Phố mèo câu
 của nhà văn Roumani với tôi, là
một trong những cuốn như thế.


        Lần đầu tiên tôi được nghe nói về tác phẩm này là qua nhà văn Tô Hoài.
Nhân nói về bậc đàn anh Vũ Bằng, Tô Hoài 
kể rằng hồi mới viết văn ông thường được Vũ Bằng cho mượn sách để đọc,
trong đó có cuốn Phố mèo câu cá 
La rue du chat qui pêche của Yolland Foldes )

Theo
Tô Hoài, câu chuyện về đám vua chúa và cả dân nghèo Roumani sang sống ở
Pháp sao mà gần gũi, thật trên trời dưới biển đủ vẻ mà  rút lại cũng trớ trêu nhơm nhếch như mọi kiếp
người.


       Không uống mà say, tôi cũng bị lây
những  ám ảnh tương tự  :


      Người Đông Âu sang sống ở Pháp. Người châu Phi sang sống ở Anh. Trên đất Đức
có cả một bộ phận cư dân người Thổ Nhĩ Kỳ. Còn người Trung Hoa thì có mặt trên
khắp thế giới từ vùng Đông Nam Á vốn cách chính quốc không bao xa tới những
vùng xa xôi mãi bên châu Mỹ. Từ lâu rồi trên thế giới này đã tồn tại một nhân
loại gồm những bầu đoàn thê tử từ giã
mảnh đất chôn rau cắt rốn để đến với những chân trời xa lạ,  và chính trong khi nhìn vào cái nhân loại bị bứt ra khỏi mảnh đất của mình
này, mỗi người bình thường có thể tìm thấy bao nhiêu vấn đề liên quan, thậm chí
có thể nói là  chỉ tới họ  --- những người lưu vong --, cảm giác về kiếp người 
mới  bộc lộ hết chất ám ảnh của
nó.


       Người ta càng thấy rõ điều này hơn khi
đọc Nazim Hikmet (nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ một thời gian dài lưu vong ở Liên xô, người từng viết  câu thơ nổi tiếng
Lưu đày là một nghề rất khổ ), hoặc khi 
đọc hàng loạt  nhà văn Nga  khác từ Henry Troayat,  Nabokov, tới I.Brodski,  A. Makin cũng như xem  những bộ phim Trung quốc có chiếu trên màn ảnh truyền hình Việt Nam mấy năm trước 2000, kiểu
như
 Người Bắc Kinh ở Nữu Ước, Đi sang châu Âu.


     Và bây giờ đến Đêm của những ông hoàng.


     Hoá ra từ thực tế của  đám dân lưu vong, người ta có thể khai thác
nhiều chủ đề khác nhau :


      Sự lang thang  phiêu bạt như là một định mệnh của con người.

      Sự xa lạ, cái cảm giác của người không tìm thấy mối liên hệ với hoàn cảnh chung quanh, mà  chỉ thấy mình buộc phải sống. 

      Nói như Marcel Proust  “Tôi đến thế giới này như người nước ngoài và  rời khỏi nó cũng như người nước ngoài “  (câu nói cô đọng này
của tác giả Đi tìm thời gian đã mất  được chính A. Makin, nhà văn Nga lưu vong sưu
tầm và trích dẫn trở lại)


      Rồi sự thích ứng. 


      Một điều bất cứ ai,  dù chưa dấn thân vào kiếp sống nơi đất khách
quê người, cũng có thể dự đoán được, ấy là 
sự mưu sinh ở đây cực kỳ khốn khó.


     Bị
dứt ra khỏi mảnh đất quen thuộc cũng có nghĩa là con người rơi xuống bùn đen.
Nơi ăn nơi ở thảm hại. Miếng ăn là chuyện phải lo hàng ngày. Để tồn tại người
ta không có quyền từ chối bất cứ việc gì 
và thường khi để có đồng bạc những người cao sang cảnh vẻ cũng  phải làm những công việc mạt hạng nhất. 


      Thích
ứng ở đây cũng là một biến thể của cái câu mà nhân vật Pavel Korsaguin  trong Thép
đã tôi thế đấy
từng tự  nhủ “Hãy biết sống ngay cả khi cuộc đời trở nên
không thể chịu được nữa!"


      Sau vấn đề miếng cơm manh áo, cái sự tồn tại hay không tồn tại kể ra còn bộc
lộ qua nhiều khía cạnh khác trong tâm lý
của dân lưu vong, mà trực tiếp nhất là
quá trình  hoà nhập của họ với con người và xã hội mà họ mới tới. 


     Trong
một tài liệu nghiên cứu về những người nhập cư, tôi đọc được một nhận xét có vẻ
nghịch lý nhưng suy cho cùng lại rất chính xác, đó là khi phải đến sống ở
những miền đất xa lạ thì sự thích nghi về văn hoá còn khó hơn cả sự thích nghi
về ngôn ngữ
.  So với sự kiếm sống thì
yêu cầu thích  ứng ở đây còn cao hơn một
bậc.


      Có điều, chính trong hoàn cảnh phải vật
lộn để thích ứng ấy, con người có dịp tự chứng tỏ bản lĩnh làm người của. 


      Vượt lên
trên sự hư hỏng buông trôi, ở nhiều người 
bắt đầu nảy sinh  niềm kiêu hãnh
chính đáng: không gì bẻ gãy được họ.




IV


        Trong phạm vi của một cuốn tiểu thuyết
vài trăm trang, cố nhiên câu chuyện được Kessel kể không thể trải ra quá rộng. 


        Trong Đêm của những ông hoàng, các nhân vật người Nga mới chân ướt chân ráo tới Pháp,  tức còn đang trong hoàn cảnh những thích ứng
ban đầu, nên họ cứ  phải vón cục lai với
nhau để vừa trông nhau kiếm sống, vừa
tìm cách an ủi nhau, chia sẻ với nhau 
những kỷ niệm cũ vốn không dễ mà quên.


       Thế nhưng, nhờ ở chỗ biết phác hoạ lại cái hoàn cảnh ấy
một  cách 
sinh động,  cuốn sách lại làm nổi
lên một chủ đề khác: đó là sự gắn bó của con người ta với quá khứ. Thật vậy
trường hợp của những Chuvalov, Fedor, Stephane... nói ở đây chỉ chứng tỏ một điều, dù đi đến chân trời
góc bể nào thì người ta vẫn thuộc về cái cộng đồng mà người ta đã sinh ra. Sau
khi  từ bỏ nền văn hoá từ đó mà mình đã
lớn lên, mỗi cá nhân  càng thấy thật ra
mình đã gắn bó với nó bằng muôn vàn sợi dây vô hình. Nó đã là một bộ phận của
con người mình. 


      Ở đây trí nhớ vừa là
niềm vui vừa làm phiền người ta, quá khứ
vừa là điều tự hào, vừa là thứ muốn quên
đi, để rồi biết ngay rằng không thể quên nổi. 


      Vậy thì, với nhiều người,
hình như việc sinh ra ở đâu là cả  một sự
kiện lớn trên đời, mỗi chúng ta không chỉ thuộc về mình mà còn luôn luôn thuộc về một thế giới khác trong đó mình và
dòng giống mình  là một bộ phận.


     Như trên đã ghi nhận, điều đập mạnh vào ấn
tượng một người đọc như tôi khi đọc  Đêm của những ông hoàng ấy là cái chất Nga
kỳ lạ của tác phẩm. Và điều này lại hai lần kỳ lạ nếu biết rằng nhà văn J. Kessel sinh ra và lớn lên không
phải ở Nga.


     Phải chăng
chỉ còn có cách giải thích chính trong hoàn cảnh sống xa quê hương,  con người ta lại có dịp trở về với cái cội nguồn dân tộc của
mình một cách sâu sắc hơn bao giờ hết ?


      Trên con đường trở thành công dân thế giới, phải chăng những dữ kiện về cội nguồn không níu kéo người ta song vẫn luôn luôn là những nhân tố cần tính tới?


      Phải
chăng đó cũng chính là cái sức hấp dẫn
mạnh mẽ và lý do tồn tại của những tác phẩm văn học viết về dân lưu vong vốn đi
thành một mạch riêng và dường như nhìn vào nền văn học nào cũng có thể  bắt gặp?  






Để hiểu thêm về Phố mèo câu cá

các bạn có thể đọc thêm bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường ở địa chỉ: 


 http://www.lebadang.org/Items/ItemDetail.aspx?AutoID=184&CateID=274                                                                      


Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2015

Mất mạng vì đăng ảnh đồng nghiệp ngủ gật lên Facebook

Theo tin nong trong ngay Bị một đồng nghiệp đăng ảnh mình đang ngủ gật lên trang Facebook cá nhân, Giáp Quang Duyệt (SN 1970), trú tại xã Yên Sơn, huyện Lục Nam, Bắc Giang đã dùng dao nhọn tấn công khiến anh này tử vong.

Hai đối tượng Giáp Quang Duyệt, Hà Văn Hào 

Ngày 13-11, Cơ quan CSĐT CAQ Bắc Từ Liêm cho biết đã hoàn tất hồ sơ khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Giáp Quang Duyệt về hành vi giết người và Hà Văn Hào (SN 1988), trú tại Thanh Ba, Phú Thọ về hành vi gây rối trật tự công cộng, chuyển Cơ quan CSĐT CATP Hà Nội giải quyết theo thẩm quyền.

Trước đó, vào 7h30 ngày 9-9, CAQ Bắc Từ Liêm nhận được tin báo tại cụm công nghiệp Phú Minh, phường Cổ Nhuế 2, quận Bắc Từ Liêm xảy ra vụ đánh nhau giữa 2 nhóm công nhân khiến anh Nguyễn Văn Hiếu (SN 1984) là công nhân Công ty TNHH Hoa Việt thuộc cụm công nghiệp Phú Minh tử vong.

Chỉ trong thời gian ngắn theo tin tuc phap luat 24h, cơ quan điều tra đã xác định Giáp Quang Duyệt và anh Nguyễn Văn Hiếu cùng làm việc tại Công ty TNHH Hoa Việt. Trong ca trực ngày 7-9, thấy Giáp Quang Duyệt ngủ gật tại phòng bảo vệ của công ty, anh Hiếu có chụp ảnh lại và đăng tải lên trang Facebook cá nhân của mình và ghi lời bình “Đây là cá nhân xuất sắc loại A”.

Ảnh minh họa Phú Khánh

Khi biết được việc làm này của anh Hiếu, Duyệt đã bực tức nên nảy sinh ý định trả thù. Khoảng 6h45 ngày 9-9, sau khi hết ca trực ở công ty, Duyệt đã mang theo một thanh gỗ dài khoảng 1,2m và 1 con dao gấp cất trong túi quần ra trước cổng công ty, đợi Hiếu đến sẽ đánh dằn mặt.

Về phần Hiếu khi đang ở nhà chuẩn bị đi làm thì nhận được tin báo của những đồng nghiệp khác trong công ty nói Duyệt đang chờ ở cổng công ty nên đã rủ thêm Hà Văn Hào đi cùng. Hào đồng ý. Cùng lúc này, Bùi Văn Quân (SN 1988), trú tại Tân Lạc, Hòa Bình là bạn cùng công ty cũng đến nhà Hiếu để đi nhờ xe đi làm.

Sau đó, Quân đèo Hiếu mang theo 1 tuýp sắt dài khoảng 50cm và một đoạn dây xích sắt treo ở giá sắt trước yên xe. Hào điều khiển một chiếc xe máy khác đi phía sau cũng mang theo một đoạn xích sắt khác. Tự tin vì có đầy đủ lực lượng, “công cụ hỗ trợ”, nhóm Hiếu tiến thẳng về phía công ty để tìm Duyệt. Đến ngã ba đường nội bộ trong cụm công nghiệp Phú Minh, cách Công ty Hoa Việt khoảng 100m nhóm của Hiếu gặp Lê Xuân Thủy (SN 1986), trú tại Ân Thi, Hưng Yên và Giáp Quang Duyệt đang đợi sẵn.

Duyệt cầm gậy gỗ, Hiếu cầm tuýp sắt lao vào đánh nhau. Hào cầm dây xích lao vào định đánh Duyệt thì bị Thủy ngăn cản. Trong lúc đánh nhau, do bị anh Quân và Thủy ngăn cản nên Duyệt làm rơi gậy. Không nao núng, Duyệt lao vào vừa tránh những cú đánh của Hiếu vừa tiếp tục giằng co chiếc tuýp sắt của Hiếu. Đúng lúc này, Hào lao vào đạp và dùng dây xích sắt đánh Duyệt.

Biết mình yếu thế, Duyệt vùng bỏ chạy thì bị Hiếu, Hào đuổi theo đánh. Hiếu dùng dao mang theo đâm Duyệt làm bị thương ở cánh tay trái và cẳng tay phải. Thấy vậy, Duyệt rút dao nhọn từ túi quần đâm thẳng một nhát vào người Hiếu thì thấy Hiếu gục xuống đất. Hào thấy Hiếu bị thương đã xông vào dùng dây xích tiếp tục đánh Duyệt. Duyệt bỏ chạy vào phòng bảo vệ của công ty, còn những người khác đã đưa anh Hiếu đi cấp cứu tại bệnh viện. Tuy nhiên, do vết thương vào đúng chỗ hiểm nên anh Hiếu đã tử vong trước khi đến bệnh viện.

Tại cơ quan công an, Giáp Quang Duyệt và Hà Văn Hào đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Xem thêm: tam su tham kin

Không khởi tố vụ thảm án ở Yên Bái

Theo cơ quan công an, do nghi phạm gây ra vụ án đã tử vong, cơ quan điều tra sẽ không khởi tố vụ án.

Như Dân trí đã đưa tin, vụ án xảy ra khoảng 16h ngày 12/11, tại xã Đại Lịch (huyện Văn Chấn, Yên Bái). Nghi phạm Phạm Chí Thành (SN 1984) đã dùng dao chém người em vợ là anh Đào V.P., khiến anh này trọng thương.

Nghi phạm Phạm Chí Thành.

Sau đó, Thành về nhà, cho 2 đứa con uống thuốc trừ sâu. Bản thân Thành cũng treo cổ tự tử.

Tại hiện trường, cơ quan công an thu giữ nhiều vỏ thuốc trừ sâu và một lá thư tuyệt mệnh Phạm Chí Thành để lại, nói rõ nguyên nhân ra tay sát hại em vợ và 2 con.

Chiều 13/11, Đại tá Hoàng Văn Hoàn - Phó Giám đốc Công an tỉnh Yên Bái - cho biết cơ quan công an sẽ không khởi tố vụ án vì nghi phạm Phạm Chí Thành đã tử vong.

Nạn nhân Đào V.P. bị chém trọng thương, được đưa vào viện cấp cứu trong tình trạng nguy kịch. Đêm 12/11, anh P. đã được phẫu thuật, hiện sức khỏe đã tạm thời ổn định.

Thứ Năm, 5 tháng 11, 2015

Nguyễn Huy Thiệp và việc "đưa khái niệm nhà văn trở về với mặt đất"






 Đọc tập phê bình-tiểu luận" Giăng lưới bắt chim" của Nguyễn Huy Thiệp (2008).

 “Một
người sáng tác phải coi lý luận phê bình như sự tự ý thức của anh ta”,
Nguyễn Huy Thiệp từng tự nhủ như vậy và đã làm như vậy. Dù rằng cái phần
tự ý thức của tác giả còn nhiều lầm lẫn và nói chung còn là chật hẹp so
với lý luận như nó phải có, song một số bài viết in trong "Giăng lưới
bắt chim" có góp phần thức tỉnh nhiều người: đối với văn học mà chúng ta
tưởng đã quá quen, đã đến lúc cần phải nghĩ khác.





 Xuất phát từ tâm huyết

Trong giới cầm bút Việt Nam thế kỷ 20, ít thấy ai có bước vào nghề kỳ lạ như tác giả Tướng về hưu.
Thoắt cái ông được tôn vinh, rồi thoắt một cái bị nếm những đòn sát thủ
hiểm ác, người yếu bóng vía chắc đã không trụ nổi. Không phải ngẫu
nhiên những bài gọi bằng lý luận hay nhất của Nguyễn Huy Thiệp ra đời
vào mấy năm 1988 -1992. Tôi ngờ rằng trong những ngày ấy, lý luận đã trở
thành bạn bầu của ông. Nó giúp ông kiểm tra lại sự trong sạch của mình
mà cũng đồng thời là cái neo giúp ông giữ lấy niềm tin để tiếp tục sống
và viết. 


Khoảng đầu 2004, khi trong sáng tác có
sự khó khăn, Nguyễn Huy Thiệp lại trở về với lý luận. Loạt bài này cũng
gây ra bao khó chịu. Song khi đưa vào sách, nhà văn chỉ lược bỏ mấy câu
"nặng tay", ngoài ra vẫn kiên trì những ý tưởng chính. Bởi dường như ông
đã lấy cả mười mấy năm cầm bút ra để bảo đảm.





 Một sự phá cách

Cho
đến nay, với nhiều bạn đọc và một số đồng nghiệp, sự có mặt của văn
xuôi Nguyễn Huy Thiệp vẫn là một cái gì “khạc không ra nuốt không vào”.
Đọc thì có đọc, trong bụng thậm chí là say mê nữa, nhưng vẫn không muốn
chính thức công nhận. Bởi so với thứ văn họ quen đọc và cái họ vẫn viết
thì Nguyễn Huy Thiệp là cả một sự phá cách. Không đi theo những nền nếp
cũ. Liều lĩnh. Cực đoan. Rất nhiều điều người khác chỉ thì thào nói vụng
nói trộm thì ông nói buột ra, và đã nói là không hối hận.

Nhưng đó cũng chính là nhân tố làm nên chỗ mới của Nguyễn Huy Thiệp, kể cả trong các tiểu luận.


“Trừ
đôi ba người thực sự xuất chúng, còn nhìn chung văn chương của các cụ
ta ngày xưa và những nhà văn hiện đại ngày nay, so với các dân tộc khác,
phải thừa nhận là kém cỏi” (tr. 33). Theo tập quán thông thường, những ý
nghĩ như thế không ai dám viết trên mặt giấy. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp đã
viết, và nếu như không đồng ý hoàn toàn thì nhiều người đã bắt đầu thấy
sự có lý của nó.


“Văn học (hôm nay - V.T.N. chú)
luôn né tránh một vấn đề nan giải khó nói nhất trong xã hội: không phải
khó khăn kinh tế, không phải sex, không phải là tình cảm với chiến
tranh... Nó là vấn đề nhân tính. Văn học Việt Nam gần đây mất đi khả
năng tưởng tượng, lãng mạn, mơ mộng và nhiệt huyết sống. Nó trở nên thực
dụng ê chề lọc lõi oái oăm đôi khi đểu cáng” (tr. 272 ). “Văn học giá
trị bao giờ cũng đề cao nhân tính. Một xã hội không có những tác phẩm
văn học hay, không có những tác phẩm có giá trị, nghĩa là nhân tính ở
đấy đang bị xói mòn đang bị mất dần đi. Trách nhiệm đó không phải chỉ ở
một người nào mà nó ở toàn xã hội” (tr. 284). Vượt lên khá xa ngay cả
với những lời chỉ trích nhăng nhít mà đầy ác ý, những nhận xét như thế
làm nhức nhối lòng người và đặt ra những vấn đề nghiêm chỉnh bậc nhất
cho việc xây dựng đời sống tinh thần hiện nay.





Đưa khái niệm nhà văn trở về với mặt đất

Không
ít nhà văn ở ta tự coi mình là những đấng siêu phàm, là lương tâm của
đất nước và trong những ngày tháng này đang lao động cật lực để phục vụ
xã hội giáo hoá nhân dân! Tác giả Tướng về hưu đưa ra cách hiểu thực tế hơn. Những khi bàn về người làm nghề, những chữ xuất hiện dưới ngòi bút ông thường là: sơ xuất, nhầm lẫn, sự bắt chước lố bịch, vị kỷ, hư đốn, đểu cáng, bất lương
- toàn những “đức tính” khiến người ta ghê ghê. Một lần khác ông nói
toẹt ra: “Khoảng hơn chục năm trở lại đây trở lại đây ở Việt Nam không
có những nhà văn có phong độ khí phách lớn. Đến ngay cả nỗi buồn cũng
không phải là nỗi buồn lớn” (nếu lấy lại bản in trên báo thì người ta
nhớ là ông còn nói đến tình trạng điên điên khùng khùng, chập cheng, hâm
hấp, quá khích, vớ vẩn…). Nghe cũng dễ sốc nhưng chỉ cần tự hỏi “Làm
sao mà người ta có thể nói được sự thật về xã hội trong khi sự thật về
chính cái giới của mình thì lảng tránh?” sẽ thấy Nguyễn Huy Thiệp có lý.


Không phải vì chán nản trước tình trạng bê bết
của nhiều đồng nghiệp mà ở nhà văn này mất đi niềm tin thiêng liêng vào
sứ mệnh ngòi bút. “Nhà văn là gì? Chẳng là gì cả. Nó chỉ là một linh hồn
nhỏ đầy lỗi lầm và luôn tìm cách sám hối vượt khỏi lỗi lầm ấy. Nó là
con vật nhạy cảm hết sức đáng thương với các thói xấu của cả bầy đoàn.
Nó viết không phải vì nó, nó viết để cả bầy đoàn rút ra từ đấy một lợi
ích công cộng, một lợi ích văn hoá”. Cái tha thiết muốn vượt lên trên
chính mình thường trực ở tác giả Tướng về hưu đã là yếu tố cứu vãn lại tất cả.







Chỗ giống người của kẻ khác người

Đôi khi Nguyễn Huy Thiệp cũng viết phê bình. Có những bài như Hiện tượng Vi Thuỳ Linh,
ở đó ông cắt nghĩa được hiện tượng thơ trẻ hiện nay trên cơ sở một nét
tâm lý xã hội đang phổ biến. Ngoài ra, nó còn cho thấy ông xa lạ với một
thái độ mị dân, lấy tuổi trẻ ra để doạ người khác. Tuy nhiên, nếu trong
khi nhìn chung nghề văn, vượt lên trên mớ kiến thức chắp vá, Nguyễn Huy
Thiệp vẫn đàng hoàng sáng suốt thì, khi viết về từng đồng nghiệp, trong
phần lớn trường hợp, ông tỏ ra khá tầm thường và tuỳ tiện.Viết như đang
lè nhè giữa một đám chén chú chén anh nào đó. Viết để lấy lòng mọi
người. Viết để trả nợ. Viết để ra vẻ bề trên, ban phát cho các đàn em...
Hình như ông quên mất mình là một nhà văn kiểu mới, nhà văn công dân,
đứng ra đối thoại với cả xã hội. 


Với một tâm lý
làng xã đã ăn vào tận xương tuỷ, nhà văn mình thường chỉ có những mối
quan hệ chật hẹp và dễ sống theo lối kéo bè kéo cánh với nhau. Cái điều
Nguyễn Huy Thiệp đã cảm thấy chán mọi người thì chính ông không thoát ra
nổi. Ở đây không thể nói là đáng tiếc mà là đáng sợ, vì sức mạnh của
hoàn cảnh đã khống chế không trừ một ai, kể cả những người thông minh
nhất.





Đặt mình vào dòng chảy thời đại

Đọc Giăng lưới bắt chim,
trước tiên tôi nhớ Nguyễn Công Hoan với cách nghĩ thực dụng và những
nhận xét kiểu “trong giới không thiếu những người cầm bút nửa đời nửa
đoạn” hoặc “có một dạo, người ta sợ những người là nghề cầm bút như sợ…
hủi” (Xem Đời viết văn của tôi). 


Tôi cũng nhớ tới Nguyễn
Khải, Nguyễn Minh Châu hồi các ông còn trẻ và đầy khao khát về nghề. Đủ
điều sâu sắc từng đươc các ông nghĩ và nói ở chỗ riêng tư, tuy chỉ nói
đâu để đấy, nói xong nhiều khi lại dặn bọn tôi là đừng có bép xép.


Với
Nguyễn Huy Thiệp, từ nay sự phân thân (hoặc nói nôm na là tính hai mặt)
không còn là định mệnh cho nghề văn ở Việt Nam, như một số người thường
tự biện hộ.


Nhưng đọc Giăng lưới bắt chim tôi còn nhớ tới nhà văn Trung Quốc Vương Sóc. Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê
tổng hợp bao nhiêu vấn đề. Tác giả chê văn học Trung quốc đương thời,
ngán văn chương đại chúng. Và ông lật tẩy cả những tượng đài của văn
chương hiện đại, bảo họ là giả dối vụ lợi. Ở Trung Quốc Người đẹp tặng ta thuốc bùa mê
đã gây ra tranh cãi. Còn ở Việt Nam, người ta lặng lẽ đọc nó với bao
thích thú, vừa sung sướng được gặp các ý tưởng mình thường nghĩ, vừa
không sợ tội vạ gì.

Tôi nghĩ Nguyễn Huy Thiệp cần
cho chúng ta một phần là ở chỗ đó: ông nối nghề văn ở ta với nghề văn ở
cả các xứ sở khác. Trong khi mang nặng cốt cách bản địa, các sáng tác
cũng như tiểu luận phê bình của ông đã là một bằng chứng để những ai vốn
ngần ngại trước con đường hội nhập có thể yên tâm. Bởi chỉ cần trung
thực với chính mình, thì thế giới chẳng xa lạ với ta mà ta cũng chẳng xa
lạ với ai cả.




Nguyên là bài Giăng lưới bắt ... lý luận

đã đưa trên blog này ngày 26-8-2008