Thứ Năm, 31 tháng 12, 2015

Nguyễn Minh Châu 1968-1973 (IV)

Ghi chú 31-12-2015

Trước khi mời các bạn đọc tiếp phần ghi chép về Nguyễn Minh Châu hơn 40 năm trước xin có mấy lời tâm sự.

Các đoạn ghi chép trên đây đã được đưa lên blog của tôi từ 12-2011. So với các đoạn sổ tay các đoạn đưa lên lúc ấy đã bị rút gọn đi nhiều. Lần này, tôi khôi phục cho đầy đủ hơn, bởi tin rằng nếu bạn đọc nào muốn tìm hiểu suy nghĩ của các nhà văn VN trong chiến tranh, khoảng cách giữa những cái mà họ viết ra và cái nung nấu trong đầu họ -- thì các trang ghi chép này có thể có ích. Chính tôi đã tin như thế.

Khi đọc lại những trang ghi chép trên đây, tôi như nhớ lại cả không khí văn học những năm chiến tranh và thầm nhủ nếu có thời gian tôi có thể giải thích thêm nhiều điều chung quanh các ý tưởng của anh Châu cũng như của bọn tôi lúc ấy. Trong lúc chưa làm được cái việc bổ sung đó, tôi tạm chỉnh lý như trên, với niềm tin rằng có một số bạn đọc nào đó cần biết.

Tôi không rõ phản ứng của bạn đọc với các đoạn ghi chép trên thế nào, chỉ có một lần đọc được đoạn phản hồi sau đây, xin chép ra để ghi nhớ rằng đã có những bạn đọc đã đồng cảm với mình.



Nói thế này có thể là “hơi buồn” và không “phải đạo” lắm.

Lính chiến trường đi qua Đường 9 thì quên đi “Chiến sĩ” của Nguyễn Khải. Nếu đi đến được cánh rừng cao su Tây ninh thì cũng không còn nhớ “Dấu chân người lính” nữa. Đến với “Đất trắng” thì khóc cho Nguyễn Trọng Oánh ra đi sớm quá. Rùng mình và chắp tay kính cẩn với Chu Lai, Bảo Ninh mà thốt lên “Mấy cha này là người hay là ma? Nếu là người thì có phúc to bằng cái đình”. Lính chiến trường mấy thằng qua nổi dăm bẩy trận mà còn gáo lành lặn trở về.(Lại còn viết tiểu thuyết nữa chứ.)

Sau cuộc chiến khốc liệt nhất, dài nhất lịch sử ấy, CÒN GÌ? – Cục đất thì nhiều lắm, còn hòn vàng thì quá ít, lại sứt sẹo, méo mó, mòn mỏi, lạc lõng …. và đâu còn sức để học mà viết. Bởi vậy, thật khó mong có được vài cuốn như “Nỗi buồn chiến tranh” và cũng dễ hiểu vì sao thiên hạ cứ nghĩ nhà văn mình kém, trí thức mình hèn.

Buồn và ngán ngẩm quá anh Nhàn ạ.


Phản hồi bởi Nguyen Thanh Van — 07.12.2009 @



Nhớ lại thời gian viết Dấu chân người lính

Hồi ấy, tôi tách hẳn mọi người ra. Ngồi ở cái tầng cuối của một ngôi nhà. Chung quanh đấy, nào là chuồng lợn, chuồng gà, ống nước chảy, bẩn thỉu, tối om ra. Ngồi như thế mà viết, một là anh cũng dễ ấm đầu, hai là anh sẽ viết đuợc một cái gì rất là ghê gớm. Như là ngồi ở dưới cái đáy một cái giếng.

Tôi đi chữa răng về, vừa đi vừa nghĩ được khối thứ. Thời buổi này, đánh nhau không xong, thì lại khổ nhất là thằng văn nghệ.Thắng xem, viết tha hồ tung tẩy.



Về anh em trẻ


Trông thằng Đỗ Chu mình chả hiểu rồi nó sẽ ra sao. Về xưởng phim nữa, thì cũng thành ra lố bịch như mọi người. Chính hồi nó viết Phù sa, nó lại tĩnh trí hơn bây giờ. Bằng Việt trông nó cứ yểu yểu như thế nào đó. Từ hồi ông ấy đi Trường Sơn về đến giờ, thấy ông ấy càng nhảm. Cái cô Quỳnh này, bây giờ nhiều bài đã lặp lại rồi, cái phần thực chất chỉ có thế. Lưu Quang Vũ không chỉ tài hoa. Chính là Vũ nó đi hết được một cái gì đó, theo con đường của nó.



Về văn học tiền chiến

Nhàn: Anh có thể viết cho mục lý luận của bọn tôi một ít nhận xét về văn học trước cách mạng, so sánh văn chương thời ấy với bây giờ chẳng hạn

Châu: Mình đọc những thứ như Giông tố, thấy cũng vớ vẩn, như thứ tiểu thuyết đăng báo, cứ thế mà kéo dài câu chuyện, theo một thứ đường dây có sẵn.

Lão Nguyễn Công Hoan, thì văn chương quá là thuộc địa. Chỉ còn trường hợp khá như Khái Hưng và Thạch Lam, nhưng cả hai người, cũng chỉ là ăn vào sự tài hoa. Nói chung người viết chỉ tài hoa không đủ đâu.Ngay cả cái lớp trẻ các ông bây giờ nữa, tôi cũng không gặp được một cái gì mới.

– Chưa có một cảm hứng mới về thời đại?

– Đại khái một cái gì như thế, muốn theo được thời đại nó phải mới lắm mới được



Tĩnh và động. Mới và cũ

* Mình về ở với những người hàng xóm và thấy nơi đó, cũng giống như tình hình nước mình. Người ta bận bịu, vất vả suốt ngày, nhưng chính vì thế, người ta chả làm được trò trống gì cả. Cuộc sống hoàn toàn mù tối.

(Ra xí nghiệp khai thác cát) Ở những chỗ này, nó cũng dễ thành hào thành rãnh lắm. Mình cũng rất dễ xỉa vào rãnh! Anh phải viết về một mối quan hệ nào thật mới mới được.



Ngoài miền Bắc mình, cán bộ có thằng tham ô, thằng hống hách, nhưng nó còn rõ mặt.Vào trong Quảng Trị, ở với bọn cán bộ, mình chỉ buồn cười. Cứ y như là con trẻ. Một lũ chim sẻ rất là buồn cười

Dẫu sao đi thực tế, vẫn thích hơn ở nhà. Đi thực tế, mình tiếp xúc với cái xấu cũng rõ hơi, cái tốt cũng rõ hơn.



Sự thải loại thường xuyên của đời sống

*Lắm khi ngồi nghĩ lại mới thấy sợ. Đang viết đã thấy chắc rồi những cái viết ra phải vứt đi nhiều rồi. Viết nhiều quá, chỉ có nghĩa là mắc bệnh tâm thần

– Trong anh viết văn, lúc tự tin, thì thật tự tin mà lúc hoài nghi thì cũng phải đến độ mới được. Những tay như Hữ Mai, chẳng có bao giờ nó hoài nghi nó một ít nào cả.



(Đi họp NXb Văn học) Trong các mặt ngồi đấy, chỉ thấy già và cổ. Ông Nguyễn Tuân lại chửi ông Hoài Thanh . “Báo Văn nghệ có cho mình ăn được một bữa, thế này không. Cái thằng nó suốt đời đi nịnh, nó lại keo kiệt. Ông Vũ Tú Nam với bà Cẩm Thạnh đáng phải vật cổ, hất tòm nó đi mới phải”. Mọi người không chấp, cũng chẳng động dạng gì. Như trong những bữa cỗ, con cháu còn mải lo các việc khác, mấy bậc bề trên làm gì cũng mặc.

Một tay vào chạc tuổi mình như thằng Mai Ngữ, trông nó ngồi với các ông già, thấy nó cũng cổ lắm.… Trong cả bọn, chỉ còn có mặt Khải là đáng nói chuyện.



*Tôi về quê, tôi thấy những người già thường hay tham, tham lam một cách trắng trợn . Bà cụ tôi sống đúng như một con mẹ ăn mày, bạ ai cũng xin tiền .Ở ngoài này, trông bọn nhà văn cũ, cũng tham lam lắm. Nay mai Hội nhà văn có cái nhà xuất bản, rồi họ cũng xí phần hết cho mà xem.

Không hiểu sao, giữa hai con đường ở với bọn cán bộ chính trị, và bọn nhà văn già tất nhiên là vẫn trong cung cách sống hiện nay, thì mình thấy ở với bọn cán bộ chính trị còn hơn. Hoặc là chính nó lại còn bênh mình nữa.



Đọc các tác giả miền Nam

Chính trong cả bọn, tôi lại thích ông này ( Vũ Khắc Khoan &Thần tháp rùa) nhất. — văn học không thể xa rời tính chất tượng trưng được. Dẫu sao, đọc miền Nam mình vẫn thấy gần với mình hơn là đọc bọn Liên Xô. Đọc tập truyện ngắn Liên Xô, thấy ghê sợ cả người. Viết rất giỏi, nhưng toàn nói những cái vớ vẩn những là con người phải sống có lương tâm, có trách nhiệm với chung quanh.

Không hiểu sao cả, tôi cứ nghĩ cái chính là văn học phải xui người ta phản kháng với hiện thực mới phải.

Với lại anh phải có một thế đứng như thế nào đó. Như bây giờ ở mình, ngồi mà rỉa rói phê phán nhau những cách sống bủn xỉn, ti tiện, ăn cắp, thì không biết chừng, chính anh lại tỏ ra là hèn thấp, vớ vẩn.

(Nghe tôi kể về quyển Bên dòng lịch sử của Cao Văn Luận) Thế mới biết những chuyện hôm nay nó động chạm tới mình, nó buộc mình thế nọ thế kia, thực ra nó lại được quyết định ở đâu đó, lâu lắm rồi, mà mình không sao hiểu được.

Dĩ nhiên bây giờ mình không nên lảng tránh mọi chuyện. Nhưng mình cũng đừng nên nhảy chồm chồm ra làm gì. Không biết chừng, cái mà hôm nay mình thấy ở bề mặt nó là thế này, trong ruột nó lại là thế khác. Lúc bấy giờ, có thể những điểm trước đây mình tin, nó cũng hỏng hết. Bây giờ phải biết trước, mà tránh đi cái hỏng ấy.



Viết về thói dung tục, có lẽ phải như Tchekhov. Lão cứ lạnh tạnh đi, mà lại nhân hậu, nhân hậu ghê chứ. Rồi mà xem, khó ai hơn được Tche khov. Đọc bọn miền Nam, cái cảm giác của mình cũng giống như cảm giác của một người vào Quảng Trị. Nghĩa là ở trong đó, cũ cũng có, mới cũng có, nhưng cũ ra cũ mới ra mới, cái chùa ra cái chùa, cái mả ra cái mả, thằng côn đồ ra thằng côn đồ, mà vợ lính ra vợ lính. Cũng như thế trong văn chương, ở trong kia, đâu nó ra đấy. Chính mình ở ngoài này lại nhoá nhoà mọi chuyện.



Văn chương và thời cuộc

* Rồi mà xem, tình hình không mở ra thì trừ Khải không kể, còn loại như tôi, Kiên, Đỗ Chu, là không kéo được đâu. Rồi chỉ còn toàn nhưng loại như Hữu Mai, hay là loại như thằng Thiều là ăn. Nó không phải là văn chương, cho nên lúc nào nó cũng viết được.

Văn chương bây giờ nó giống như một thứ lá số, người ta có thể đoán ra thế nào cũng được.

Lâu nay, cứ nói thằng nào giỏi chính trị, viết chính trị — đó là những thằng láu cá.Ngồi nghe chuyện cảnh giác chẳng hạn, thấy những thói lừa lọc, lèo lá mà bọn viết gán cho bọn miền Nam, thực ra, cũng là của bọn miền Bắc hết. Xã hội mình là thế đấy, mọi chuyện cốt được việc ngay bây giờ.

Bấy nhiêu năm chiến tranh, thằng Mỹ nó đánh vào mình, có những thứ rất cổ hủ, mà nó không sao tàn phá nổi. Khoảng đầu năm 1973, tôi về quê hương. Tất cả là như vậy. Đi đường gặp một bà bán hàng, chào hỏi. Hoá ra con bà cụ chứ không phải bà cụ ngày xưa. Nhưng mà dáng dấp vẫn vậy.

Khi nó không đánh được cái cổ hủ ấy, thì những cái tốt đẹp kia, lại bị nó làm cho tan nát đi, không thể nào lấy lại được.



Mấy ý tưởng bâng quơ

* Ông hỏi tiểu thuyết là gì ư? Cũng như hỏi hạnh phúc là gì, bố ai mà nói được.

(Xem phim xxx) Diễn viên bây giờ, cũng như những người khác. Đóng người anh hùng được thôi, đóng người bình thường thì không đóng nổi.

(Nhân nghe đọc một thông cáo) Chính trị bây giờ còn đầy những chuyện ám chỉ, văn chương làm sao mà không ám chỉ được.

Cảm giác về những ngày hôm nay ư? Cảm giác về không khí. Mình đã ở với cái không khí này bao lâu nay, vậy mà mình vẫn không thật hiểu nó. Bây giờ mình mới thấy nó ở bên mình, đè lên mình, như một trái núi vậy.

Mỗi cuốn sách được viết như là một thứ nhà tù, mình giam mình vào đấy rồi mình gỡ từng viên gạch ra dần dần.Cuộc đời mỗi người là gì, nếu không phải là cuộc liên hiệp dài giữa mình và hoàn cảnh. Buổi sáng dậy, bố ngồi chân tường, con ngồi chân tường. Từ chỗ ngồi đó, sang chỗ ăn chỉ cần lê có vài bước thôi. Rồi người nào lại lê về chỗ của người ấy.

Thế mà cuộc đời mình cũng đi qua, mình cũng trở thành một người viết văn nổi tiếng, mình biết không biết bao nhiêu điều về những điều mình chả tin tưởng gì.

Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2015

Nguyễn Minh Châu 1968-73 (III)



Về lao động nghề nghiệp

* Nói thì bảo sách vở, chứ thật ra văn chương là chuyện khổ công. Có nhiều ý nghĩ, mà nếu không phải là đưa vào trang viết, mình nghĩ không ra. Có nhiều chữ nghĩa, mình cứ phải xoay xoả trở đi trở lại mãi mới hạ bút.



Tôi đọc những ông như Xuân Sách, viết cho thiếu nhi, thấy chữ nghĩa vớ vẩn lắm, lại không chuẩn bị gì đâu. Cả những ông như Hữu Mai, lấy toàn từ liệu về máy bay máy bò, cái tư liệu chết ấy không gọi là tư liệu được. Hồ Phương cũng không phải tài hoa. Lão ấy còn cái gì đểnh đoảng nữa cơ. Chính Khải nó đọc, nó đi, nó sống kỹ viết kỹ chứ. Thằng Khải đi đơn vị, tôi đoán nó nằm dưới đất. Ông Hữu Mai thì đừng hòng. Ông này lúc nào cũng phải có cà phê với cái ăn ngon. Hay là không mò đi chơi, nghe tin tức là không chịu được.

Cái hồi tôi viết Dấu chân người lính, bên xuất bản Thanh niên nó chỉ bảo tôi chữa có vài chỗ, tôi ngồi tôi chữa mãi chứ có ít đâu.

Xem ra trong nhà này, tôi là người viết khó khăn nhất.



Về người cùng nghề

* Tôi là thằng viết, mà không gì ngại bằng phải sống cùng nhà với những ông viết khác. Cũng ngại những người khác, khi người ta làm thân và ra ý hỏi mình về việc viết lách. Cứ y như người ta đang dòm hành vào nhà mình.

Có lần, tôi xuống chỗ ông Mai. Ông ấy đang dọn các thứ, mới đưa cho quyển sách xem, một quyển tài liệu gì mà ông Văn đưa cho.

– Châu xem, có khi đọc cả quyển này, chỉ lấy được có vài ba dòng.

…Mình chưa thấy một anh nào lại chọe mình về việc viết lách như vậy.



Nhàn: Không hiểu sao, tôi cứ muốn anh viết về những người thủ công, ở Việt Nam mình, số phận người thợ thủ công rất tiêu biểu. Dĩ nhiên là đừng nên thi vị hoá họ, như kiểu ông Tô Hoài. Thi vị hoá người thợ thủ công không được đâu.

Châu: Như là cái Những người chân đất (tiểu thuyết của Z. Stancu-- Rumanie), nó viết giỏi lắm. Nó không sa vào cái phần phong tục thi vị hoá đâu. Trong những cảnh đói khổ nhếch nhác của con người, nó toàn ra những điều có ý nghĩa triết học… Chỉ phải cái cũng hơi sốt ruột.



* Ở Việt Nam mình, người viết tiểu thuyết đã nhiều, mà vẫn chưa có nhà tiểu thuyết. Nhưng tiểu thuyết phải như thế nào kia chứ không phải như cái ta đang viết hiện nay. (Như bọn tôi, cũng chẳng có quan niệm gì về tiểu thuyết -- một lần khác Châu nói vậy).

Về lối làm việc của nhà văn, tôi cũng thích nhiều thứ. Thích đi, thích viết bút ký đi đường. Trong khi đó, lại thích viết một cái gì, nó… nó giống những bức tranh xã hội. Rồi lại viết một cái đầy biểu tượng, như là gió ông Cụt. Nhưng mà làm như thế, phải có tài, có sức khoẻ, có điều kiện lắm cơ ! Để làm nhiều thứ cùng một lúc. Và như thế mới là nhà văn.



Một câu buột miệng:

–Ăn như tá điền thế này thì viết thế sao được



Chiến tranh muôn vàn bộ mặt

* Một bữa, tôi ngồi bên một mâm cơm, và tôi chợt nghĩ phải biến những cái này thành sự kiện văn học. Nhà văn ngồi đâu, thì phải biến cái đó thành sự kiện văn học ngay mới được. Mình phải viết để trả thù, trả thù lúc mình khốn khó quá.

Ngày 4/12/72, tôi đi lang thang khắp đường. Ở bên kia, ông Thọ vào bàn hội nghị. Ở bên này, dân tình xao xác.

Tôi đi trên những đoạn đường Hà Nội, tìm xem chỗ nào chỗ hết của đường nhựa, tức là mở đầu cho đường đất. Nhìn từ ngoài đường vào, dường như các nhà đều là yên tĩnh. Nhưng nhìn cho kỹ, lại như không phải. Lại như sự xáo động nằm trong tình cảm mỗi người.

– Bao giờ tập Đèo Trúc của ông Cao ra, tôi sẽ xin viết. Tôi viết rằng có người phải lao vào chỗ động, để nói cái động, như bọn mình, như thằng Duật. Nhưng lại có loại người mà cứ ở đằng xa, nghe tiếng động đó nó dội lại mình, mà vẫn có thể viết, như loại ông Cao.

Nhưng phải trách là ở cái nhà này, các ông ấy ít đi quá, ít chịu nghe mọi thứ ở ngoài mình. Có bao nhiêu là việc.

– Tôi nghĩ ra rồi. Bây giờ mình viết về những chuyện phản chiến, mình cũng không bằng mấy ông nước ngoài. Cái mới của mình văn chính là ở chỗ mình vẫn nói, tức chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Phải tìm ra ở đấy, những cái mới mà viết.

Ngay cái phần mà mình ngồi mà mình nghĩ, tức cái ảo ảnh của con người, tôi cũng thấy nó là cái chung, mà đâm ra mình lại rất khó viết.

Miền Bắc mình, những năm chiến tranh phá hoại có gì rất đáng viết. Rất đáng viết về Hà Nội, Hải Phòng. Viết về cao xạ, không hiểu sao thằng Chu nó không làm được. Viết về khu Bốn, ngòi bút Mai Ngữ tĩnh lắm, không viết được đâu.



Chỗ nào có thể hay?

* Khi nào tôi viết, có những chỗ bùng nhùng, biết dừng lại và nghĩ cho kỹ thì sau tôi lại viết được. Ý tôi muốn nói chỗ nó hơi phải nghĩ một tí, mình hơi bí ấy, nhưng chính vì như thế, mình phải tìm. Như tôi viết cái chương Kinh lên thăm trận địa. Nhẫn, Khuê thì lại còn hơi dễ. Đằng này ông Kinh ! Tôi không biết, xoay sở như thế nào. Tôi cứ xách túi đi chơi.Mãi về sau, mình nghĩ tới cái tĩnh và cái động trong cuộc đời, khéo chừng, viết thế lại được.

Những ông như ông Văn Đa, vẽ cái gì cũng dang dở, cũng như những công trình nửa vời, cách đi đánh đứng nửa vời, chứ không phải đi hết trên con đường mình định đi



Nhàn: Dấu chân người lính nhiều đoạn cái tài hoa át cái thực.

– Ông phải công nhận tôi viết cái đó trong một thời gian khó khăn, chạm phải những cái khó khăn. Nếu không có cái tài hoa làm cho mình mê đi, tôi làm sao viết hết được quyển sách…..Những người như ông ăn ở sự cần mẫn. Còn tôi, tôi ăn ở sự thất thường. Tôi biết lợi dụng sự thất thường đó. Nhưng mà ông xem, trong số các anh em ở đây, có phải tôi là người vẫn viết một cách khó khăn hơn cả không.



Đã phàm là một người viết, bao giờ ông cũng phải nhớ cái này: phải chú ý tới tiềm thức. Phải để cho cuộc sống tự nó nẩy lên vấn đề gì đó… Nếu như cái gì tôi viết, mà tôi có quá nhiều chủ định –ví như Trên vùng đất sỏi, Những vùng trời khác nhau – những cái đó toàn hỏng cả.

– Ví như tôi thấy có thể viết một làng xóm ở khu 4. Một làng mà trạm giao liên đi qua… Nó vốn xa quốc lộ, xa mọi thứ phố xá… Chiến tranh đến với những nơi đó, sẽ rất kỳ lạ cũng thật thấm thía.Muốn được như thế cái cửa mở ra cho người viết phải rộng ra nữa, phải viết với cái bút pháp thế nào cơ.



Nhàn: Ông Nguyễn Khải viết đối thoại giỏi đấy chứ. Muốn cho ra đối thoại, một tác giả phải để cho các nhân vật đủ mạnh, rõ cái chất người của nó ra cơ.

Châu: Đối thoại của ông Khải không giỏi, chẳng qua các nhân vật của ông Khải cũng như ông ấy, sắc sảo lý lẽ. Mình sợ những người nào viết đối thoại thế nào để giữa các nhân vật nó cứ lạnh như không ấy cơ, mà nó lại ra được mọi chuyện.

Nhàn :Tôi chỉ ức là không sao mang được cái gì đã nghĩ, đã trò chuyện đối đáp với nhau ở Hà Nôi những năm này vào bài viết của mình.

Châu: Nhưng mà thế thì làm sao mọi người in được.



Đi dự một buổi họp thông tin.

– Ở ngoài kia nó khen chê mạnh dạn hơn. Chính mình sống với nhau ở đây, khen không ra khen, chê không ra chê, chán lắm.



Nhàn: Hôm nay, tôi đi ngoài đường, thấy mùa rét đến, những đám ống khói, trẻ con nó đốt lên, ra vẻ tết lắm.

– Ông phải công nhận tôi viết nhân vật Lữ thích khói, thật là giỏi chứ ? Chi tiết như thế mới là chi tiết.



* Mình là cái anh nhà văn, mình phải viết không ra Hà Nội, cũng chẳng ra nông thôn. Phải viết, bao gồm được cả hai cái đó, bao gồm được mọi thứ, đứng trên mọi người, đứng trên mọi giai cấp.

— Nhưng mà có lúc tôi cứ nghĩ ngược hẳn . Viết về chiến tranh mà mình là cái anh đã nhiều chất lung tung, nhiều chất phản chiến quá rồi. Nếu lại đi viết về những thứ đó thì có thể lại chẳng được cái gì hết cả.



Những hạn chế

-- Trong quyển Dấu chân người lính, anh có thấy người ta chê cái gì mà anh cảm thấy đau nhất ?

– Chưa có, chưa có

– Có cảm thấy cái khu vực nào mà mình viết, nó không vào không?

– Có chứ. Ví dụ như từ nay trở đi phải viết về một thực tế huyễn hoặc, là cũng như mình cảm thấy mình còn chưa đặt chân vào được, đó là cái chỗ rất khó của văn học mình.



Nguyễn Khải: Phải công nhận văn xuôi Nguyễn Minh Châu có sức miêu tả rất lớn. Đó là một nghệ sĩ. Nhưng đó lại chưa phải là một nhà tư tưởng…. Chính lúc thấy cái ông ở ngoài hội nhà văn khen Dấu chân người lính quá đi, thì tôi lại càng thấy rõ đó là ở ông Châu có một cái gì rất hợp thời, từ nay mình không cần chú ý nữa.

Xuân Thiều: Nguyễn Minh Châu viết giỏi, từng trang một đọc rất trôi, nhưng mà toàn bộ lại không thích lắm.



1973



Quảng Trị và chiến tranh

Nhàn: Đi Quảng Trị lần này hẳn anh sẽ lên chỗ lính địch một tí.

– Xì, lên làm gì. Bây giờ tôi sợ nhất phải viết về địch, lại phải viết mình tốt nó xấu, mình thì ánh sáng, nó thì bóng tối, thật chả ra sao ! Cứ viết ngay về mình đây này, cũng đã có thể được khối chuyện.Để ý cho cho kỹ là được. Viết về nó, phải viết khác.



(Sau khi đi Quảng Trị về) Tôi chỉ dám lên chốt một ngày. Đánh nhau kinh, bây giờ trai tráng hai bên dằn mặt nhau cũng kinh – trong khi đó thì đàn bà, con trẻ cứ moi đất cắm từng cây mạ mới trên mặt đất hàng năm nay bỏ hoá.

… Cứ cho tôi ngồi, tôi lôi hết nhật ký ra đăng, có khi lại thấy hay không biết chừng. Cứ bảo lo viết lách kiếm tiền, chẳng qua nói thế cho người ta đỡ ghét. Chứ được viết cái gì của mình, thì giá có phải ngồi uống nước lã mà viết cũng chấp nhận.

Có lần, tôi đi từ Cam Lộ ra đường 9 – mình say sưa ngắm một đám cháy, rồi mình lại tự mắng mình là đi thưởng thức những cái trò chơi của chiến tranh.

… Biết đâu, trong những năm vừa qua, mình cũng đã làm công việc đi nhìn ngắm như vậy.



Nhàn: Tôi muốn ai đó viết về người lính 304 – cái người lính không phải của những chiến thắng, mà là của những sự chuẩn bị chiến đấu, dai dẳng, khốn khổ.

Châu: Nhưng để làm gì? Nói đến chiến tranh, là phải nói đến giết người.

Nhàn: Không đủ! Người ta phải làm rất nhiều hành động trước, thì người ta mới có thể giết người được. Sự giết người chỉ là hành động cuối cùng. Tôi muốn viết về hành hạ con người trong những năm tháng này. Từ con người bị hành hạ mới đẻ ra con người bắn giết.



* Trong đợt đi Quảng Trị, tôi đã chú ý nhiều đến các đội điều trị. Là vì trong cái chiến dịch 1972 này, đó là cái phần việc mà mình thấy có thể nó còn là giữ gìn con người, bảo vệ con người.

… Nhưng đi vào vẫn thấy bí. Những ngày chiến dịch, những thằng Quân y làm việc cứ như một bọn mổ vịt mổ gà (cho đến cả y tá cũng mổ).

… Một thằng lính Quảng Trị nó nói với tôi: Quảng Trị đúng là cái máy nghiền thịt.

Tôi ngồi tôi xem lại cái phần Lửa từ những ngôi nhà. Và tôi tự hỏi bây giờ mình phải viết thế nào. Viết ca ngợi chiến tranh cũng không được. Viết phản chiến cũng không được. Thôi thì viết cái gì đó, người ta cứ phải sống, lầy lụa mà sống, mà chịu đựng.

– Viết về kiếp người ?

– Gọi thế cũng được nhưng nó hơi bi thảm quá.



* Người nào đi Quảng Trị về, cũng thấy chói lên cái câu hỏi về chiến tranh – cái câu hỏi đỉnh chạm trời, và chân sát mặt đất.

… Lắm lúc, chả muốn đọc những thứ người ta suy nghĩ nữa. Ai nghĩ cũng chẳng bằng mình. Đất nước này là đáng nghĩ nhất. Mình là thằng nghĩ có thể hay nhất.

– Phải viết thế nào đó cho hết mình. Đôi lúc như là chỉ cần ghi lấy những ý nghĩ vớ vẩn của mình cũng được, nghĩ xuôi rồi lại nghĩ ngược, quanh quẩn nghĩ gần rồi lại đẩy nó ra xa, đẩy nó ra xa, rồi lại kéo nó vào gần…Văn học là phải như thế.



Nhìn lại một số tác phẩm viết về chiến tranh

*Tôi ngồi tôi đọc Sống mãi với thủ đô. Xem như ông Tưởng ở một đầu chiến tranh, mình ở đầu đằng này. Thấy trước từng ấy năm, mà ông Tưởng ông ấy lại còn tiến bộ hơn mình. Ông ấy còn dám nói cầm súng là một việc không ra sao, chúng ta buộc phải làm vậy. Còn mình, mình chỉ thấy việc cầm súng một việc anh hùng, tốt đẹp, chúng ta lầm lẫn mục đích với phương tiện. Và một số người cầm bút cũng lẫn giữa mục đích và phương tiện như vậy.



– Kiểm điểm lại thì thấy người viết mình loanh quanh lắm. Có độ 4-5 vấn đề, rồi cùng nhận ra và cùng chui cả vào đấy. Chả cứ chui vào về mặt tư tưởng, mà chui vào cả về mặt cốt truyện. Xem xem, từ ông Nguyễn Thi, ông Phan Tứ cho đến ông Xuân Thiều, cũng một cái thôn như thế, một cô trẻ trẻ bí thư chi bộ, lại một mẹ già, rồi một thằng địch. Sao mà mình giống nhau như lột. Tự nhiên câu cú chữ nghĩa cũng phải giống nhau.

… Nhưng tình hình mười năm tới, rồi cũng phải thế thôi. Ở mình đừng hòng viết về một cái gì hư ảo đâu, cái nền văn học ấu trĩ của mình rồi rút cục cũng chỉ như hôm nay. Chỉ có thể thế này, độ bảy phần nịnh thì viết lấy ba phần trung. Bảy phần như mọi người, và ba phần như của mình, lên diễn đàn hét ầm lên, nhưng cũng có lúc có thể ghé vào mọi người, nói vài điều tâm sự. ( Nhàn:Tôi chỉ sợ những cái anh ba phần kia cũng không có một, thì sao gọi là văn học được).

… Ở nước ngoài, đúng là nó hay viết về đất, về cát, về những chuyện đâu đâu, chính vì đó là cái phần bản năng, nó cũng là cái phần huyễn hoặc của mỗi con người.

– Con người ta, nếu cái gì cũng rõ ràng rồi, thì không phải viết nữa. Xem một nhà văn nhiều khi xem anh ta nói về phụ nữ thế nào, vì phụ nữ bao giờ cũng sống một cách bản năng như vậy.



Tính khái quát trong văn học

Hôm qua tôi ngồi nói chuyện với Khải. Một quyển như Vang bóng một thời ăn ở cái gì? Vì nội dung, nó ăn ở chỗ nó không sa vào cái hỗn tạp của thời đại bấy giờ, nó đề cao một cái gì tĩnh, đẹp, nói cho cùng cũng hợp nhân bản — mà về mặt nghệ thuật, ăn nhau ở câu chữ. Nhà văn của mình bây giờ chả ăn vào điều gì cả.

– Lúc nào đó, phải bàn lại cái chuyện như tính khái quát trong văn học, tính khái quát có phải là tính tượng trưng không. Khái quát ở mức nào (ví như truyện của Khải cũng chưa phải là khái quát lắm). Văn học nó phải là một cơ thể nội tại. Nó phải có một cuộc sống riêng — dù cách cuộc sống khi gần, khi xa, tức là nó có mô phỏng cuộc sống, hay là nó biến hình, nó thăng hoa đi, thì cũng vậy, — bao giờ nó cũng tách ra, có cái lý riêng của nó mới được.



Nhàn: Tôi đọc bài Nhà thơ trẻ và cánh rừng già của anh. Tôi thấy nó có nhiều chỗ vụt một cái, từ thực tế đến khái quát. Bọn chúng tôi viết kém, hay bị lằng nhằng.

– Căn bản là có sự liên tục trong ý nghĩ thì không cần móc nối. Với lại phải bạo một tí.

– Hay là có những câu dài…

– Có những trường hợp, tôi đã viết một câu dài, tôi định cắt nó ra — câu ngắn có cái ghê gớm của nó chứ, nó rất quyết liệt, nhưng phá không ổn, lại cứ phải để câu dài, để cho người đọc nó đọc cả cái nhịp nghĩ của mình.

Người viết văn có thể bằng cả vào cái đó, bằng vào cả cái quá trình suy nghĩ của mình, mà nói chuyện với người đọc. Như tôi đã nói với ông một lần, chỗ nào bùng nhùng, chỗ ấy tôi lại cảm thấy viết được.



* Người viết văn phải vừa viết, vừa hoài nghi mình mới được. Cảm thấy rằng mình đang còn ngờ vực cái điều mình vừa viết, để cho người đọc tiếp tục nghĩ. Còn như cái ông Lê Khâm, ông ấy viết văn cứ như dân Quảng Bình đúc gạch táp lô. Và ông ấy vứt cái gì ra, là tin nó vừa khít như trình độ nhà văn của ông ấy đấy.



Viết về chiến tranh chính ra lại có cái đưa đẩy đi, có cái để trốn. Mình phải động viên thằng lính, không thể nói hết mọi chuyện được. Viết về hoà bình mới thật khó quá, phải viết thực. Lắm lúc ngồi nghĩ, lâu nay nhà văn mình cứ xem có cần cái gì thì minh hoạ cái ấy, thế mà vẫn sống đuợc, lạ thật! Rồi sau này, chả còn gì.

Bây giờ trong văn học, những thằng bất tài sống hơn những thằng có tài. Mà trong mỗi người, chính anh lại sống bằng cái phần bất tài của anh hơn là những phần anh cảm thấy phải hơn, anh tài năng hơn. Thế mới chết!

Nhàn: Cái ông Nam Cao, ông ấy rất nhân bản.

Châu: Đồng ý với ông, cái nhân bản nó là cái quan trọng. So ông Nam Cao với ông Nguyễn Công Hoan thì Nam Cao nhân bản hơn. So Nguyên Hồng với Nguyễn Tuân, thì Nguyên Hồng cũng hơn. Bây giờ, bọn viết trẻ cũng thiếu. Bây giờ, bọn viết trẻ đã đến với chủ nghĩa anh hùng, trước khi đến với chủ nghĩa nhân đạo. Không đến được với chủ nghĩa nhân đạo, anh không viết được đâu.



* Bây giờ đi đâu, tôi cứ muốn né né, tránh tránh đi. Không muốn giơ mặt ra làm gì.

Cho nên gặp thằng Chu, thấy ai nó cũng bắt tay, mình lại đâm ra ngại.



Các vấn đề hình thức

* Là cái thằng viết anh phải chú ý đến câu chữ. Càng những chỗ bùng nhà bùng nhùng, anh lại càng phải viết cho trong sáng.Thằng viết phải nhớ rằng cả hai thứ vũ khí tay trái và tay phải, đều nguy hiểm — hình thức là tay trái, mà nội dung là tay phải.

– Hôm nọ, lão Khải cũng đã nói rồi. Ngay ở Vang bóng một thời cũng chỉ được về văn.Văn mình bây giờ cũng không có nữa, không biết ra sao?

– Những lão như lão Tuân, lão Xuân Diệu thực ra thiếu tư cách thì cũng là điều dễ hiểu. Họ đã quen ăn ngon rồi chẳng hạn. Mình ăn miếng giò, thì giò nào cũng được. Các lão ấy còn biết củ tỉ từng thứ giò một, giò hàng nào, thịt hàng nào.. Cho nên tống những thứ ấy vào mồm là viết theo đặt hàng hết.

Ví như mình, mình cũng vẫn có những khao khát. Mình giá có khổ nữa, nhưng được viết thoải mái, còn hơn sướng hơn, mà bắt viết khốn nạn.Mình muốn nói lên một điều gì đó. Mình muốn thét lên một điều gì đó còn nghẹn trong lòng.

Nhàn: Mình mới hơn?

Châu: Cũng không biết có mới không, nhưng mà rõ ràng là trẻ, cần trẻ quá đi chứ! Trẻ để có thể vụt ra cái điều thằng già nó giấu.



– Anh có ý thức về sự thay đổi của mình? Ví dụ từ truyện ngắn sang Cửa sông

– Hồi ấy tôi cứ làm thế thôi, không tính được.

– Anh có nhận đằng viết truyện ngắn không hay bằng truyện dài?

– Truyện ngắn khó. Xưa nay có truyện ngắn nào chỉ ăn ở chỗ ca ngợi

– Thế Daudet, Paustovski ?

– Đó phải là những người có tài ghê lắm cơ.



Nhàn: Tôi không phải là người học đòi dễ dãi đâu. Nhưng tôi cứ cảm thấy là cần phải viết khác đi. Con người mình cứ rời vụn ra, đồng thời lại rất thống nhất. Con người mình vừa lạnh đi vừa ngày mỗi cuồng nhiệt lên. Nhưng tôi hỏi anh, từ lối viết Cửa sông sang đến Dấu chân người lính, anh có ý thức không?

Châu: Cũng không hoàn toàn có ý thức, nhưng cứ cảm thấy là có khác. Đó là lần tôi đi chiến trường. Đi toàn với những người gây cho mình khó chịu, mình thấy rất rầy rà. Lại nữa, tình hình đánh đấm khó khăn, chẳng ra sao cả. Có nhiều điều không giống như dự kiến. Tự dưng trong con người mình nó sinh ra cái chất ác, cái yêu cầu phải phanh phui mọi chuuyện, phanh phui chính mình. Tự dưng con người thấy phải đi đến cùng trong một số ý nghĩ. Bắt đầu bằng việc ghi vào nhật ký.

– Những chuyện hình thức, nó vào mình ghê thật

– Vì sự biến chuyển của hiện thực, nó làm cho con người anh như một người sốt, sờ vào đâu cũng thấy nóng, mồm mũi mang tai đều thở ra hơi nóng. Đúng là tất cả những cái đó phải vào trong nội dung mới được. Nội dung không có, đâm ra hình thức cứ loanh quanh

– Nhưng mà vẫn có chuyện hình thức.

– Có. Hôm nọ Bằng Việt nó có nói chuyện này. Theo lời Nguyễn Khải, Bằng Việt nó nói là cách chia chương chia đoạn của văn xuôi mình quá cổ; đáng lẽ mình cũng phải chia theo những ý của nội dung, những ý của triết lý mới phải cơ, chứ cách chia theo thời gian không gian bình thường là hình thức lắm.Như thế là đã ngửi thấy hơi văn xuôi cả đấy.



Chất văn học

* Thằng viết thật buồn cười. Lắm lúc phải khoảng khoát, mà lắm lúc phải tẩn mẩn tính toán, quá anh hàng xén. Tính bao nhiêu chuyện.

Ví như tôi. Nó mời chào ghê lắm, nhưng nhất định, tôi sẽ không viết kịch bản phim. Viết những thứ ấy, không có ngôn ngữ nữa, vì nó không yêu cầu anh về mặt ngôn ngữ. Tôi cũng sẽ không viết truyện thiếu nhi. Không viết truyện ngắn. Chỉ vài ba năm, phang ra một cái truyện dài, hay tiểu thuyết cũng được. Hỏng thì hỏng mất vài năm, nhưng cũng đành chịu, mình phải tỉnh táo mà viết.

Văn chương VNQĐ mình đại khái là lính tẩy. Loại người như thằng Thiều, Hữu Mai, cả Khải, cả tôi là văn chương kiểu cán bộ, cán bộ chính trị.

Còn bọn bây giờ, nó lại lính tráng quá, Đỗ Chu lính, lính theo nghĩa binh nhất binh nhì, anh thiếu cái chững chạc của thằng cán bộ, chững chạc trong tác phẩm.

– Tôi đi xem một bộ phim Bulgari có một thằng nó làm thùng, nó nói về cái tài năng trong cuộc đời. Hôm nọ họp, tôi đã phải nói họ nói toàn chuyện vớ vẩn, ra những vấn đề quan trong; mình nói toàn chuyện quan trọng, mà xem lại thì vớ vẩn.

… Nói thế thôi, quy lại bây giờ mình rất giống nhau. Học ở đâu không biết, vừa viết vừa bình luận. Không ai làm được cái lối viết như Hemingway, có vẻ lẳng lặng tả thế, mà lại ra vấn đề. Mình thì hay xông vào truyện, ngố không chịu được. Đúng là các nhà văn của một dân tộc lắm điều.

Một buổi chiều, vừa ngồi xổm lau nhà vừa nói vọng lên:

– Mình còn biết là mình lảm nhảm. Lại còn bao nhiêu thằng cứ ngồi đấy, uống chè, hút thuốc lá, mặc quần áo thật diện, rồi cứ phán xét những chuyện đâu đâu, thì mới nhảm đến là ngần nào.



Mối quan hệ với chính mình

Nhàn: Khốn khổ, tôi vẫn có thích đọc lại văn mình!

Châu: Người viết mà không còn cái đó, thì anh còn gì nữa?

-- Viết đôi khi như là một sự bắt được. Tức là tự nhiên mình tìm thấy một cái gì đó, mà trước đó mình chỉ ang áng, chứ thật ra, mình cũng không thật hiểu.

– Người viết bao giờ cũng có những cái mà theo đuổi. Tác phẩm trôi chảy theo những cái hữu hình.Nhân vật áo xanh hay áo vàng, quen ai hay không quen ai, nhà văn phải biết.Nhưng nhà văn lại còn như đang theo đuổi một cái gì rất vô hình, một vẻ đẹp, một nhịp điệu. Về sau này, anh mới có thể nói rằng anh viết kỹ lưỡng cẩn thận, là để tỏ ra kính trọng độc giả hoặc là vì thế này thế nọ. Nhưng thật ra, trước hết, nó là để thoả mãn chính anh.

— Tôi thấy viết còn có cái thú vị này. Là cảm thấy chinh phục được một cái gì đó. Cảm thấy sẽ bắt nó đi theo cái ý của mình, nó thuần phục mình hoàn toàn. Bằng chứng là người ta vốn bảo nó như thế này, anh lại có thể viết nó ra thế kia… Đó cũng phải được coi là một thứ sung sướng.



-- Có những người như ông Khải khi đi thực tế ông ấy ghi rất nhiều chi tiết. Tôi thì khác. Tôi nghe người ta nói, cũng lơ mơ thôi (Dĩ nhiên, mình cũng phải ghi, văn xuôi tốn tài liệu lắm!). Nhưng ngồi với cái nhân vật tương lai của mình đó, cái trước tiên là mình tính: tính xem hắn mang lại cho mình cái gì, mình phải thông cảm với hắn điều gì – giữa ngưòi lính hậu phương với người lính ở tiền tuyến, có cái gì khác nhau? Có được cái phần đó rồi thì thôi đấy, coi như là anh đã gặp được một con người.



Sống và viết trong chủ nghĩa xã hội

*Vấn đề căn bản của văn học ở cái chế độ mình, nó là vấn đề đạo đức. Tức là xem con người ta nêu sống thế nào cho phải, cho phù hợp với xã hội (không bao giờ đặt vấn đề văn chương tồn tại hay không, như ở các nước khác.)

… Một người như tôi, tôi cũng hay để ý xem ở các nước XHCN, họ làm ăn thế nào, nhìn họ đi biết con đường mình có thể đi.

…. Tôi không thể nào viết về các loại truyện mà các nhân vật bị quấn chặt trong những chức vụ, những thứ như là chính sách, thời sự 1-2 năm. Tôi có viết về xã hội chủ nghĩa, thì tôi cũng tìm được cách rồi. Những lần đi qua cái chỗ khe nước lạnh ở giữa Nghệ An –Thanh Hóa, tôi rất chú ý những công trường làm đá ở đấy. Nếu cần phải viết, thì tôi viết về một cái miền xa xôi như vậy, mà ở đó, người ta vẫn bị mọi thứ quan hệ xã hội chủ nghĩa chi phối…

— Có lẽ là anh muốn đi cái kiểu như Aitma tov

– Có thể là như thế.



Những cái gọi là văn chương của XHCN mình, tôi đọc không chịu được. Ông Khải cứ khen om cái Đồng chí trong chủ tịch đoàn (tập truyện Liên Xô) tôi đọc thấy chả có gì, viết dở lắm. Tôi chỉ thấy được có cái phim Người đương thời với lại cái Khởi đầu.

Nhàn: Trong XHCN, thể chế xã hội đã là cái khung quá chặt, văn học lại tự tạo cho mình những cái gông, như một thứ khung nữa, muốn xoay sở cũng khó.

– Đúng hai cái khung. Trong khi đó, thì con người của mình bây giờ phức tạp quá. Đất nước chia ra, trong mỗi gia đình chia ra, và trong từng gia đình, y như có vài thằng người tồn tại. Tôi nghệ sĩ và tôi cũng tính toán vặt,tôi thông minh và tôi ngu — có cả. Những cái mặt ấy chen cạnh với nhau, giằng xé lẫn nhau, rồi nó ra mình.

… Đại khái văn học XHCN cũng như con người lão Khải ấy. Cứ bóng lòng lọng lên. Cứ sắc sảo, có rất nhiều vấn đề, mà lại hoá ra không có chuyện gì cả.

Hôm nọ, tôi nói thế này, lão Khải lão ấy mếch lòng lắm. Tôi bảo “Những thứ văn chương nói về hợp tác hợp tộ sau này vứt đi cả thôi !”

… Không biết chừng, mình còn trong sáng hơn cả lão Khải nữa.



* (Xem Đường qua đất nước phim CHDC Đức) Xem thấy thằng làm phim nó rất rành mạch với bản thân. Với lại cái chính là nó nói được về một con người. Cái người đàn bà ấy trong chiến tranh, đi đến đâu, cũng đón lấy bọn trẻ con, y như mang trong mình những cái mầm nhân bản. Cái hướng mở như thế rồi nói được như thế, thì tức là rất hợp với mình. Mình cũng chẳng còn mong được cái gì hơn nữa.





Câu và chữ

Nhàn: Văn chương mà viết cho tinh luyện đọc sướng thật. Nhưng tôi lại càng thích thứ văn có vẻ như xô bồ nhưng lại có được vẻ đẹp bên trong của nó.

Châu: Nhưng như thế, cái nội dung anh viết phải thực lắm cơ.

– Cái chữ quan trọng thật.

– Chữ, đó là màu của tranh. Cùng với chữ, tư tưởng triết học của anh hình thành.

– Có nhiều người chữ dùng quá chênh vênh.

– Một số người khác, thì chữ lại nhợt nhạt. Như ông Thi chẳng hạn.

-- Văn ông Tuân còn là do phần công phu, cho nên nhiều lúc còn thấy vàng son lộng lẫy quá. Văn ông Nam Cao cũng điệu.

-- Đúng rồi, văn chương như văn Tô Hoài dông dài thế nào cũng xong … mới viết về cách mạng được. Văn của Nam Cao chua chát thế, giá có viết về cái mới cũng rất khó viết. Tôi đọc một cái ký của Quang Dũng. Đúng lão này có một thứ ngữ pháp rất lạ. Tức là ngữ pháp của mình, thằng này thì cứng quá, điệu bộ, thằng khác thì mềm yếu quá. Ông này ông ấy cứ vuông vức, dẽ dàng, ngữ pháp nó cứ thành những kết cấu xếp theo chiều dài đâu vào đấy.

Nhưng thôi, văn của người nào, là do tạng của người ấy. Cốt có một điều, phải cho nó rõ ràng, đâu vào đấy, đừng có nham nhở, chắp vá, vớ vẩn, hoá ra hỏng.





Kể chuyện cánh biên tập xưởng phim

Bọn ấy nó thạo lắm ông ạ. Như thằng Trần Kim Thành, nó bốc ông Mai lên thế nào không biết, nhưng ngồi với tôi nó chê nhem nhẻm. Đại khái nó nói là nó chỉ mượn cái tên Vùng trời của ông này thôi, còn nó sẽ làm ra một cái phim hoàn toàn khác.

Hay là cái ông Phạm Văn Khoa, ông ấy bảo tôi. Ông có biết ở Liên xô, bọn nào nói chính trị hay nhất không? Bọn say rượu. Một lần tôi đang đi, thấy hai thằng say rượu đang đùa nhau.

– Đứng lên, đứng lên, khách nước ngoài kia kìa, người ta cười chết.

– Khách nào thế?

– Việt Nam.

– A, Việt Nam, Việt Nam. Hoan hô các đồng chí Việt Nam. Con đường XHCN rất rộng, mời các đồng chí cứ đi(ý muốn nói: bài xã luận tháng 8/72 của mình.Hồi ấy, cha con chuẩn bị với nhau mấy tháng mới có thể ra đựoc cái xã luận ấy đấy chứ).



Nói chung, bọn Xưởng phim nó đều nói rất hay, vì chúng nó đều là bọn thất thế. Thằng nào nó cũng có cuộc đời cả.

Còn như mình ở đây, nói chung chúng tôi cũng như ông, tức là vào đây ngay, chẳng anh nào có gì thăng trầm. Mình là nhà văn ca ngợi chế độ này thì đúng rồi. Mình có điều suy nghĩ một tí thì cũng chỉ là nói hộ những người thất thế.



*(Viết truyện phim) Mình chỉ là cái thằng nhà văn viết truyện thôi. Phim không ăn được đâu.

Nhàn: Anh phải làm nhiều thứ cho nó “hiện đại” cơ. Trông ông Mai đấy.

Châu: Những thằng ấy nó làm một thứ không xong, cho nên nó mới phải làm nhiều thứ. Nhưng mà thôi, làm thế chỉ tổ hỏng bút. Văn học mà mất đi cái vỏ ngôn ngữ, thì còn gì là văn học nữa.





Thử ngồi viết một cái gì không cần in, rồi cũng lại chán. Mình bây giờ nó cũng quen rồi. Làm cái gì phải có cả nghệ thuật lẫn kiếm tiền, có hai cánh nó mới đủ sức thôi thúc. Chỉ có nghệ thuật thôi không được. Nhưng chỉ có kiếm tiền thôi càng không được!

(còn tiếp)

Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015

Bức tranh làng xã một thời quá khứ



Trên thế giới hiện có cả một môn học chuyên nghiên cứu nông thôn và nông dân nhưng ở ta, ngành này còn đang non yếu, chập chững. Điều đáng tiếc nữa là nhiều người chỉ biết tới những công trình (những bài báo, những cuốn sách) mà các tác giả như Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Từ Chi, Diệp Đình Hoa, Vũ Huy Phúc,... đã cho công bố mấy chục năm gần đây, chẳng hạn Xã thôn Việt Nam, Người Việt vùng đồng bằng Bắc bộ, Tìm hiểu làng Việt, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Nông thôn Việt Nam thời cận đại...





Trong khi đó, thực tế cho thấy là ngay từ 1945, trên lĩnh vực này, người Pháp đã có nhiều chuyên gia hoạt động có tính cách khai phá, cuốn sách Người nông dân châu thổ Bắc kỳ của P. Gourou , bản dịch tiếng Việt in lần đầu 2003, tái bản 2014 là một ví dụ.

Riêng phần nghiên cứu viết bằng tiếng Việt thì còn nằm rải rác trên các báo, tạp chí, tuy nhiên, ở đó cũng có nhiều trang viết có tính khái quát cao, chúng có thể giúp bạn đọc có quan tâm tới nông thôn hiểu biết sâu sắc hơn về bức tranh làng xã trong quá khứ, từ đó lý giải nhiều hiện tượng trì trệ bảo thủ hiện nay.

Dưới đây, chúng tôi muốn giới thiệu một trong những công trình loại đó, loạt bài Những nhận xét nhỏ về dân quê Bắc kỳ, của tác giả Tân Phong Vũ Văn Hiền, in trên một tờ tạp chí xuất bản ở Hà Nội thời gian 1941 – 1945, là tờ Thanh Nghị.

Như tác giả viết trong lời mở đầu, sau một thời gian sống hẳn ở một làng quê, ông ghi lại một số nhận xét của mình.



Thói quen biệt lập

Nét đặc trưng của đồng bằng Bắc bộ là tính chất manh mún lặt vặt, làng nhỏ thôn xóm rời rạc và được hình thành một cách tự phát. Đã có những nơi người ta định dồn các đơn vị nhỏ lẻ ấy lại thành những đơn vị lớn hơn, nhưng gặp phải sức phản kháng từ nhiều phía. Người dân muốn sống xa sự quản lý rồi dông dài thế nào cũng xong. Mà lý dịch cũng không thích ghép làng nọ với làng kia vì như vậy họ mất quyền lợi.

Các làng quen sống biệt lập với nhau, ngay các thôn trong cùng một làng cũng vậy. Vì không tin nhau, người ta thường rất chểnh mảng mỗi khi phải có việc cần đến sự cộng tác. Những quãng đường nhiều thôn cùng đi là những quãng đường ít được sửa sang nhất.



Bộ máy quản lý đơn sơ cổ lỗ

Trong phần lớn trường hợp, bộ máy này được hình thành trên cơ sở sự hiệp thương, thoả thuận giữa các phe phái trong làng, chủ yếu là xoay quanh các dòng họ. Bởi vậy, mặc dù trên nguyên tắc thì lý trưởng là người đứng đầu bộ máy hành chính, nhưng thực ra người này chịu sự khống chế của các bậc đàn anh trong dòng họ mình (nhiều khi những người này giấu mặt, song ngấm ngầm điều khiển công việc). Họ mạnh thì mới trúng được lý trưởng. Nhưng trong một làng mà vấp đâu cũng là người cùng họ thì việc điều hành của người lý trưởng có bất lực cũng trở nên dễ hiểu. Nhiều khi tình thần gia tộc diệt hết tinh thần công dân và cả những người đứng đầu trong làng cũng không thoát ra nổi tình cảnh đau xót này.

Nhưng sự bất lực của bộ máy còn đến từ nhiều lý do khác. Vì những chồng chéo trong phương thức tổ chức, nào là xóm ngõ, nào là giáp, nhiều khi các phe cánh mới sinh ra chỉ là để chống lại các phe cánh vốn có. Nhất là vì các nguyên tắc vận hành của bộ máy đó không được hình thành rõ ràng, và sự giải thích thì hoàn toàn tuỳ tiện. Rút cuộc, cả xứ như một hội riêng của những tư nhân. Nếu cái đặc tính của một pháp nhân cai trị là quyền ban hành những nghị định có ý nghĩa cưỡng bách, buộc mọi người thi hành, thì làng xứ ta chưa bao giờ có được cơ quan như vậy. Đây cũng là lý do khiến người ta nói rằng trong suốt quá trình tồn tại của mình, làng xóm mải lo làm ăn kiếm sống, mà không hình thành nổi một nền hành chính hợp lý.



Về cái gọi là nguyên tắc dân chủ ở nông thôn

Do những rơi rớt từ thời công xã nên có nhiều việc phải được sự nhất trí của đông đảo mọi người. Trước những công việc có ý nghĩa quyết định, cả làng cùng được mời ra họp. Việc làng thường định vào những ngày tuần tiết là những ngày ở đình có tế lễ và ăn uống. Khi nào có việc gì khêu gợi sự cạnh tranh và đụng chạm đến những quyền lợi có sẵn thì số người ra họp khá đông. Còn khi nào chỉ họp để dự định công việc mới mẻ nhưng chưa ai thấy lợi trực tiếp cho mình thì buổi họp rất vắng, nhiều người chỉ ra tế lễ ăn ruống rồi về. Mà cũng chẳng có lề luật nào định phải có bao nhiêu người dự bàn mới là đủ.

Thường thường những cuộc bàn cãi trong những buổi họp việc làng không dẫn đến một kết quả thiết thực gì cả. Bởi ngoài đám đông vô cảm thì một số người gọi là có hiểu biết một chút lại hay phá ngang. Chỉ cần một kẻ phản đối thì đủ làm cho điều đề nghị hay đến đâu cũng phải gác bỏ. Mà ở làng nào cũng có vài viên kỳ mục, vài người bướng bỉnh giữ thái độ phản đối: Hoặc vì họ thấy công việc sẽ làm không trực tiếp lợi cho họ, hoặc vì họ ghét người khởi xướng ra công việc ấy; đại khái họ nghĩ rằng người khởi xướng định bới ra việc để ăn - điều nghi kỵ sau này tiếc thay, nhiều khi cũng đúng.



Sự trì trệ kéo dài

Nghe thì có vẻ ngược đời, nhưng trong nhiều trường hợp, chính cái gọi là tinh thần dân chủ nói ở trên lại là nguyên nhân của tình trạng trì trệ. Nói chung, ngẫu nhiên tuỳ tiện gặp đâu hay đấy là đặc tính chi phối các hoạt động chung của làng xóm. Muốn đắp một con đường ư? Quyết định năm nay, nhưng có nhẽ rồi một hay hai năm sau mới làm xong, mỗi họ mỗi thôn mỗi gia đình ung dung tiện lúc nào thì làm lúc ấy. Muốn đào một giếng nước ăn ư? Nếu người khởi xướng ra việc đó không can đảm đứng ra mà đốc thúc thì dân làng cứ chịu khó ăn nước ao mãi. Hội đồng làng xã đặt lệ cấm đổ rác ra đường cái ư? Nếu không có một mối hiềm thù riêng từ trước, thì không một chức dịch nào thấy mình có trách nhiệm là ngăn cản hay trừng phạt người làm trái lệ ấy.



Tài chính bế tắc hay là thu chi hạn hẹp và giấm giúi

Khái niệm tổ chức sản xuất không có trong đầu những người quản lý làng xã. Sự bất lực trong hoạt động, có một lý do đơn giản: ngân sách thường rất hạn hẹp. Làm ăn kém, người dân muốn sự đóng góp càng ít càng tốt. Mà sự chi thì lúng túng, chẳng mang lại lợi ích gì chung. Thứ nữa, lý dịch chỉ nhăm nhăm chờ cho những dịp thu thuế có được ít quỹ là giấm giúi chia nhau giật tạm, việc này ai cũng biết mà không sao kiểm soát nổi. Tinh thần hoài nghi càng có dịp để mọc rễ trong tâm trí mỗi người dân thường.

Trước năm 1945, khái niệm xã hội học chưa thông dụng, song có thể nói trong bài viết này, nông thôn Việt nam trước 1945 đã được xem xét đánh giá bằng một cái nhìn mang tính cách xã hội học khá sắc sảo. Một trong những kết luận cuối cùng của người viết bài này quy lại ở một điểm thực tế: muốn cho làng xã thay đổi thì không thể và không nên để làng xã tự trị, làng nào cai trị làng ấy. Mà phải có một quy hoạch chung, hình thành nên một loại chức sắc chuyên quản lý nông thôn, loại cán bộ này (như cách ta gọi ngày nay) được đào tạo kỹ càng và do công quỹ trả lương. Có như thế thì mới khởi động cho việc đưa nông thôn ra khỏi tình trạng biệt lập trì trệ vốn kéo dài từ thời trung đại và đến nhà nước thuộc địa Pháp cũng bất lực.



Đã in Xưa & Nay, số 297, 12/2007, tr 32

Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

Cha mẹ Hồ Duy Trúc: Chúng tôi vui mừng nhưng chỉ biết khóc!

Sáng nay 23-12-2015 theo tin tuc moi trong ngay, ông Hồ Duy Tùng và bà Út, cha mẹ của Hồ Duy Trúc đến thăm con ở trại giam Chí Hòa.

Hôm qua 22-12, sau khi báo đăng tin Trúc sẽ thoát án tử hình, họ đang trên đường từ Phan Rang vào thăm con. Nghe luật sư Lê Nguyễn Lê Vy báo tin qua điện thoại, ông bà mừng khôn tả. Trong tù, Trúc cũng đã hay tin, sáng nay vừa gặp mặt, Trúc nói: "Cha mẹ ơi con được sống rồi!". Cả nhà ôm nhau khóc, mừng vui không nói nên lời.

Hành vi dã man của Hồ Duy Trúc (chặt tay một nữ nạn nhân để cướp xe SH trên cầu Phú Mỹ) khiến dư luận rúng động về sự tàn bạo. Trúc bị hai cấp tòa sơ và phúc thẩm tuyên án tử hình về tội cướp tài sản. Theo Nghị quyết 109/2015/NQ-QH13 hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự Quốc hội vừa ban hành, không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người phạm tội mà Bộ luật Hình sự 2015 đã bỏ hình phạt tử hình, trong đó có tội cướp. Với những bị án chưa thi hành án, sẽ được hạ xuống chung thân. Trúc thoát chết!Bé Nguyễn Hồ Duy Khoa (áo trắng), con trai Hồ Duy Trúc khi bốn tháng tuổi tại hàng trái cây ở chợ Phan Rang của bà nội.

Bé Nguyễn Hồ Duy Khoa (áo trắng), con trai Hồ Duy Trúc khi bốn tháng tuổi tại hàng trái cây ở chợ Phan Rang của bà nội.

Hồ Duy Trúc và những anh chị em của mình có một tuổi thơ cay đắng và đói nghèo ở một căn nhà rách bên sông Dinh (Phan Rang). Chị gái Trúc là Hồ Thị Khánh Minh, chính là vợ sắp cưới của Tô Công Luân - chàng sinh viên nghèo ở làng Bình Quý (Ninh Phước - Ninh Thuận), qua đời sau khi sang Trung Quốc bán thận năm 2008. Khánh Minh khi đó 17 tuổi, bụng mang dạ chửa nhưng không có tiền, vì thế Luân vượt biên sang Trung Quốc bán thận và bị những kẻ dã man cắt luôn cả hai quả thận.

Theo tin nong trong ngay Minh đã vượt biên giới sang Quảng Châu đưa Luân về trong cảnh thân tàn ma dại rồi cùng mẹ mình và gia đình Luân đưa cậu vào Sài Gòn, chăm sóc, chữa trị cho đến ngày Luân mất. Gần tháng sau thì đứa con trai của họ chào đời trong một căn chòi đất ở xóm bờ đê ven sông Dinh. Nay nó đã vào lớp 1.

Khánh Minh và Tô công Luân khi còn yêu nhau. Ảnh chụp năm 2007, đứa bé trong ảnh không liên quan đến số phận hai nhân vật. Ảnh: VIỄN SỰ

Còn Hồ Duy Trúc cũng có đứa con trai ra đời khi anh ta đang ở trong tù. Bé được luật sư Lê Vy nhận đỡ đầu và giờ đang học mẫu giáo.

Tội ác nào cũng đáng bị trừng phạt nhưng việc thoát chết của Hồ Duy Trúc sẽ giúp con anh ta thoát cảnh mồ côi cha.

Hồ Duy Trúc

Cha mẹ Trúc mỗi xuân về lại ra bãi sông Dinh gieo bông vạn thọ và nhổ bán những ngày giáp tết. Mấy năm rồi, mỗi mùa hoa là lòng họ thêm héo hắt đếm từng ngày việc Trúc bị thi hành án tử hình. Giờ, họ đã có thể nghĩ về những ngày mai - khá xa - khi Trúc cải tạo tốt và giảm án để trở về. Ngày đó nếu nhanh chắc con của anh ta cũng học gần xong cấp hai và ông bà đã rất già.

Ông Hồ Duy Tùng và bà Út, cha mẹ của Hồ Duy Trúc tại chợ hoa Phan Rang năm 2009. Ảnh: VIỄN SỰ

Gặp Trúc sáng nay, ông đã nói gì với nó? Ông Hồ Duy Tùng kể vợ chồng ông chỉ biết khóc, cám ơn mọi người đã thông cảm với nỗi tủi đau có đứa con hư gây tội ác. Rồi dặn con cải tạo tốt mà về nuôi cháu, chớ mẹ cha già như chuối chín cây biết rụng hồi nào.

Hết giờ thăm nuôi, họ lại tất tả về Phan Rang khi hay tin nhạc phụ luật sư Lê Vy mất sáng nay. Ở đó có mấy đứa cháu nội ngoại vắng cha và ở đó bên bãi sông Dinh, còn có mùa vạn thọ chờ bán tết. Mùa hoa này hẳn sẽ tươi hơn.

 Nguồn: bao tin nhanh

Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2015

Vũ Cao và một kiểu người quản lý văn nghệ những năm chiến tranh.


 Theo nhiều người kể lại, ngôi nhà 4 Lý Nam Đế, nơi làm việc của tạp chí Văn Nghệ Quân
đội
từ 1957 đến nay, vốn được xây từ trước 1945 để dành cho phi công Nhật.
Các phòng gác hai được lát bằng thứ gỗ phẳng lỳ, anh em sống ở tòa soạn chúng
tôi thường lau sạch đi, lấy chỗ để hàng chục người có thể ngồi họp hành nghiêm
chỉnh hoặc quây quần tán chuyện.



 Sau khi lễ mễ mang cả xô nước từ bể lên gác lại nhoài người lau nhà, mọi người
không khỏi tiếc sức, nên trước cửa thường không quên đề rõ rằng vào phòng để
dép ở ngoài. Nhưng có lần anh Hà Trì, người trình bày các số báo,
 kể với tôi:


--
Ông  mới về không biết, hồi trước đã có lần
hình như ông Oánh thì phải đã phải đề rất rõ “Giày dép để ngoài, trừ Vũ Cao”.


--
Sao lại có cái  lệ lạ lùng vậy, chắc là để
chiếu cố thủ trưởng?


--
Hồi ấy đâu ông Cao đã lên Phó chủ nhiệm mà chiếu với chẳng cố. Căn bản là ông
Cao ở cái phòng dưới nhà mình chuyên đi đất, ra ngoài mới xỏ dép, nên vào phòng
đi dép hay bỏ dép cũng thế. Tóm lại chân Vũ  Cao lúc nào cũng bẩn, có thế mà cũng không hiểu,
bố trẻ ạ!


  Người phụ trách tờ báo của chúng tôi có tính
xuề xòa thật. Trong khi các thành viên tòa soạn hai người một phòng trong ngôi nhà hai tầng sang trọng trên gác thì thủ trưởng Vũ Cao và thủ phó Từ Bích Hoàng chỉ mỗi người một
phòng, loại phòng nhỏ dưới ngôi nhà một tầng tường mỏng cửa giả sơ sài, mùa hè thì nóng mùa đông thì lạnh.  Bàn ghế không có gì khác anh em.  Nhân viên có đến làm việc ngồi cạnh cái bàn gỗ
mộc. Người công vụ của cơ quan là anh Mạn chỉ ưu tiên cho hai vị  hơn hẳn anh em là mỗi sáng đun sẵn cho mỗi
người một phích nước sôi, để các vị tiếp khách.


Trong
đời cán bộ của mình trước sau tôi chỉ ở có hai nơi là Văn nghệ quân đội và nhà xuất bản Tác phẩm mới sau là nhà xuất bản Hội nhà văn, nên  không được biết nhiều về lề lối làm việc hồi ấy,
nhưng rõ ràng Vũ Cao là loại người xuề xòa hiếm có. Xin kể hai chuyện có liên
quan tới bản thân.


Năm
1964, tôi đi bộ đội theo chế độ nghĩa vụ quân sự và bắt đầu đeo cái lon binh
nhì. Sau mấy tháng luyện quân ở Nà Sản, lúc được gọi về làm giáo viên văn hóa,
nghĩa là làm đúng chuyên môn của mình, tôi cũng chỉ bò dần theo chế độ hạ sĩ
quan; tới khi từ Đoàn kịch Tổng cục chính trị chuyển sang tạp chí, mới chỉ đeo
quân hàm  thượng sĩ.



Văn Nghệ quân đội đâu độ gần một năm
rồi tôi mới được chuyển dần lên chuẩn úy
quân nhân chuyên nghiệp 1970, rồi thiếu
úy theo hệ sĩ quan chính thức năm 1971, và từ 1976 tới khi xuất ngũ 1978 là
trung úy.


Tôi
còn nhớ rất rõ cả mấy lần nhận giấy thăng chức. Buổi sáng thức dạy tập thể dục
và ăn sáng xong, đang leo lên cầu thang, chuẩn bị làm việc, tới nửa chừng, bỗng
nghe có tiếng Vũ Cao khẽ gọi, nhưng lại giật giật từng tiếng một Nhàn Nhàn, tôi
không hiểu ra làm sao cả. Sao trước đó thủ trưởng lại cứ đi đi lại lại như đã
chờ mình thì phải? Mọi khi có việc gì anh vẫn nhắn qua anh em khác để hẹn tới tận
phòng, sao lần này sao khác hẳn? Tôi đã tới sàn tầng một. Vũ Cao đang tay chắp
sau lưng vụt giơ về phía tôi tờ giấy với một câu nói khẽ “Của cậu đây này”, rồi
bỏ đi luôn không chờ tôi hỏi lại một lời. Lúc lên phòng mở ra, hóa cái quyết định
trao quân hàm. Tôi biết rằng ở nơi khác mỗi lần như thế,  các thủ trưởng cơ quan làm rất bài bản. Gọi
nhân viên tới. Trước khi đưa quyết định thì huấn thị dài dài, yêu cầu thời gian
tới thế nọ thế kia. Và nhất là cố làm cho người được thăng chức biết công ơn
mình, nay mai tiếp tục hầu hạ mình. Đằng này Vũ Cao làm như một việc chẳng dây
dưa gì đến anh cả, cấp trên đưa tờ giấy phong ai thì anh trao cho người đó thế
thôi, và là trao ngay giữa lối đi.


Đến
như cái chuyện sau đây thì bây giờ tôi vẫn giật mình không ngờ lúc ấy mình liều
thế mà Vũ Cao cũng dễ dãi với mình đến mức vô nguyên tắc đến thế. Hè năm 1972
đó tôi có quyết định theo một đoàn văn nghệ (gồm có các anh Thu Bồn Sơn Nam
bên tạp chí tôi, anh Trần Anh Vinh và
anh Sơn Nam bên PhòngVăn nghệ) đi chiến dịch Quảng Trị. Theo nguyên tắc mỗi
sĩ quan  sơ cấp như bọn tôi đều phải mang
theo một khẩu súng lục. Từ lúc lĩnh về, tôi cũng chẳng mở ra xem nữa. Chỉ muốn để ở nhà cho đỡ nặng nợ. Cứ ấp úng mãi,  lúc sắp lên ô tô, tôi không nhịn được nữa,
đành nói thật với Vũ Cao:


-                      --  Anh cho em để nó ở nhà được không?


Sau
một phút suy nghĩ, Vũ Cao phẩy tay:


     --  Ừ!
cất ngay vào tủ trên gác đi…


Sau
này biết tôi không mang súng, thiếu tá Anh Vinh trưởng đoàn còn cằn nhằn mãi. Tới
một trung đoàn, anh xin hộ tôi một khẩu carbin
và bắt tôi mang theo. Lúc này đã vào chiến trường rồi, tự nhiên tôi cũng thấy cần
có một khẩu súng nhỏ bên mình, dù cũng chẳng bao giờ tôi nạp đạn để bắn một
viên nào cả.


Cái
nét phóng khoáng trong sinh hoạt thật ra chỉ là một hậu quả tự nhiên của cái phóng khoáng chung trong quan niệm sống
của Vũ Cao.


Nhìn  bọn anh em viết trẻ chúng tôi, bao giờ Vũ Cao
cũng mủm mỉm cười. Anh gọi chúng tôi là một lũ “nhốn nháo cách mạng” và ngầm có
ý bảo rằng hôm qua bọn mình cũng như các cậu có khác gì đâu.


Sinh
hoạt tư tưởng trong những năm chiến tranh có những sự gò bó chấp nhặt rất lạ. Một
bậc đàn anh dạy nghề trực tiếp, người nối tôi với tòa soạn bấy giờ là Nguyễn
Minh Châu. Trong  những buổi tối trò chuyện
đủ thứ với nhau,  tác giả Cửa sông thường không quen dặn tôi, giữa
quan điểm văn nghệ của cơ quan mình với các cơ quan chung quanh vênh nhau lắm, 
có nhiều chuyện nói trong cơ quan thì được vào trong thành hay trước mặt
các phái viên Tổng cục mà cứ nói linh tinh thì khốn đấy. Tôi thấm thía lời dặn  đó của Nguyễn Minh Châu, rõ nhất là trong một lần
đi họp với mấy  vị  phụ trách Thư viện và nhân viên các phòng Tư
liệu của các cơ quan báo chí bên cạnh.  Với niềm tự tin và cảnh giác cao độ, các đồng chí đó
đặt vấn đề phải quản văn nghệ báo chí
thật chặt, ngay các biên tập viên các phóng viên cũng không được đọc các tài liệu
ngoài quy định của Tổng cục. Ở  một trình
độ cao hơn, tôi nghe ra một nguyên tắc nghiêm ngặt  có tính chỉ đạo chung, là phải xây dựng một nền
văn nghệ riêng, không để  cho những linh
tinh bên ngoài đột nhập.


Họp
xong về, tôi lắc đầu le lưỡi bảo với 
Nguyễn Minh Châu và mấy người khác, hôm nay tôi mới hiểu thế nào là kỷ
luật tuyên truyền trong quân đội.


Câu
chuyện rồi cũng đến tai cả Vũ Cao và Từ Bích Hoàng. Vũ Cao bảo nghe ai nói thế
nào lúc nào phải phân tích cho kỹ, có khi người ta nói với mình một khác, mình
lại nghe lầm thì sao. Còn cụ thể trong trường hợp này, biết tôi có nhiều bạn bè
bên ngoài, Vũ Cao dặn là biết thế thôi chứ đừng có đi mà nói rộng ra với cánh
Xuân Quỳnh Bằng Việt nhỡ anh em hiểu lầm.


 Trong một dịp hiếm hoi, Vũ Cao nói thêm với
tôi rằng cả trong những buổi  họp với cấp
trên, anh vẫn báo cáo cho các vị rõ là không có chuyện đó, không có chuyện một nền
văn nghệ quân đội hoàn toàn cô lập, và các 
vị  không có ý kiến gì khác.


 Nên biết rằng hồi đó, giấy in báo không có, và
hình như bên Tuyên giáo cũng không  muốn
có nhiều báo làm gì, phát sinh nhiều chuyện thêm mệt.  Từ 1964 về trước, cả giới còn có tờ tạp chí Văn Nghệ của Hội liên hiệp và  tờ báo hàng tuần Văn học của Hội nhà văn.  Sau
kỳ Đại hội Hội liên hiệp lần thứ hai, hai tờ này sát nhập lại gọi chung là Văn nghệ. Tờ báo 16 trang mỗi tuần mà phải
cõng chung cho cả mỹ thuật, âm nhạc sân khấu, quả thật còn đâu ra đất để mà
dành cho các nhà văn.  Văn Nghệ quân đội chúng  tôi lúc ấy do Tổng cục chính trị quản. Đằng thằng
mà nói, những người phụ trách tạp chí có thể làm theo cái lối là khóa chặt cửa
lại, chỉ đăng sáng tác cho anh em nhà, cũng chả ai phê phán anh được. Thời các
anh Văn Phác Thanh Tịnh — những người tiền nhiệm của Vũ Cao — việc mở cửa đã bắt đầu
nhưng còn khá dẻ dặt. Tới Vũ Cao thì việc
này thành một nền nếp. Nhất là Văn nghệ quân đội rất sẵn sàng đón nhận
những tác phẩm hay của các bạn trẻ. Tôi nhớ hồi đó, tất cả những Xuân Quỳnh,
Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Hoàng Hưng, Thi Hoàng, Nguyễn Khắc Phục…
đều có thơ hay truyện đăng ở Văn nghệ
quân đội
và các tác giả trẻ này đều cảm thấy tạp chí không hề có tính chất
căng cứng hoặc biệt lập gây cho người khác 
chút mặc cảm nào cả.


 Sau này tôi mới hiểu Vũ Cao làm thế  -- không bao giờ tự coi là dân đứng ngoài,
không muốn dính dáng đến các sinh hoạt văn học chung -- không phải là chuyện ngẫu
nhiên. Sự gắn bó giữa phong trào văn nghệ trong Quân đội với lực lượng sáng tác dân sự đã có từ thời kháng chiến chống Pháp.  Hồi ở Hương Ngải, một trong những câu chuyện đầu
tiên Nhị Ca kể với tôi là chuyện Nguyễn Đình Thi sau khi đi chiến dịch trung du
đã ghé lại chỗ các anh, ngồi lì 18 ngày viết cho xong Xung kích mới  quay về cơ quan
Hội văn nghệ, đưa cho các ông Trường Chinh Tố Hữu duyệt. Vũ Cao thì kể hồi
1948-49, cơ quan của anh tuy đã kéo lên Việt Bắc song vẫn có bộ phận ở Hà Nội,
trên này cần gì  dưới đó mang lên. Và thế
là các anh có cả một lô những cuốn sách bằng tiếng Pháp, cái quyển mà Vũ Cao nhớ
hơn cả đâu là cuốn Cơn bão táp của
Ehrenburg. Nghe tin có sách, Nguyễn Đình Thi đang từ cơ quan Hội văn nghệ đi bộ
cả ngày đường sang chỗ Vũ Cao đọc nhờ. Mình vừa phải cho nó đọc sách, vừa
phải nuôi báo cô nó mấy ngày – Vũ Cao vừa nói vừa cười khà khà vẻ tự tin của một
người từ trẻ đến già luôn luôn là ông chủ những cơ ngơi đàng hoàng.  Trong các câu chuyện của ông với chúng tôi về
thời nay của văn nghệ, ông không cần nhắc nhiều nhưng cái cảm giác về thời xưa ở
Việt Bắc cứ còn mãi trong ông, chả chuyện gì bên Hội nhà văn – bao gồm cả người
và việc -- lọt qua mắt ông cả.


1970,
 Nam Định làm lễ kỷ niệm 100 năm sinh Tú
Xương. Văn Nghệ quân đội cũng một
ô-tô riêng về thành Nam. Trở về Vũ Cao chỉ nói với tôi:


--
Sừ Tô Hoài ghê thật!


--
Sao hả anh?


-- Có coi ai ra gì đâu.  Ngồi trên chủ tịch đoàn mà tôi để ý toàn thấy tay ấy viết cả.  Hình như đang viết một tiểu thuyết về Cao Bá Quát. Ra ngoài tay ấy còn bảo
là sẽ gửi cho bên mình vài chương. Tôi đồng ý ngay.


Sự
thông thuộc tình hình cả giới bảo đảm cho mọi sắc thái làm nên phương hướng mà
Vũ Cao phải quyết định .


 Đứng
về mặt sáng tác, tác phẩm của Vũ Cao ở lại với lịch sử văn học chiến tranh  chỉ có Núi
đôi
, bài thơ mà trong thời chống Mỹ, khi tìm hiểu nhiều ba lô các liệt sĩ,
người ta thấy nó được chép rất nắn nót trong khi họ chẳng chép bài nào của Tố Hữu. 


Về con người thi sĩ nơi Vũ Cao, riêng
tôi  chỉ một lần  đọc là dù quên tên  nhưng thuộc 
ngay được bài lục bát sau:


Mẹ tôi ru cháu chiều chiều


Thường là hát mấy câu Kiều cháu nghe


 Mây hồng khóa kín song
the


Bụi
hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao


 Tôi rằng cháu hiểu làm sao


 Những câu thơ tự thuở nào mẹ ơi


Lặng yên mẹ chẳng trả lời


Hai tay ôm cháu ạ ời vẫn ru


Mai
sau dù có bao giờ


 Đốt lò hương ấy se tơ phím này


 Con tôi đôi má hây hây


 Lại yên giấc ngủ thơ ngây chiều chiều


Bâng khuâng mẹ nói một điều


Nghĩ mà thương phận cô Kiều ngày xưa


Cũng
giống như Chính Hữu, Vũ Cao chỉ có độ vài chục bài thơ. Và cái chính là trong
cách sống, ông vẫn có chất của một cán bộ quân đội làm công tác phụ trách, còn
người nghệ sĩ trong ông thì còn ở dạng nghiệp dư, khi vui thì viết, cũng không
có một bài bản gì đầy đủ, lại càng không chất ngất quyết tâm trở thành nhà văn
lớn.


Tuy
nhiên đối với tôi, đây là một loại quan chức văn nghệ phù hợp với tình hình lúc ấy.


Một
đặc điểm của sinh hoạt văn học trong  thời
gian chống Mỹ, là có rất nhiều vụ đánh đấm sát phạt nhau. Tôi sẽ nói lại tình
trạng này trong một hồi ký riêng, ở đây chỉ 
nói một đặc điểm là rất nhiều vụ trong đó được đẩy lên quá mức cần thiết,
nhiều vụ không đáng có mà vẫn xảy ra, chẳng qua là có các vụ đấu tranh tư tưởng
trong xã hội nói chung thì người ta phải mượn việc đe nẹt giới văn nghệ để nêu
gương. Hồi chiến tranh phá hoại, máy bay Mỹ có cái lệ là sau khi oanh kích các
mục tiêu ở Bắc bộ, lúc trở về hạm đội trên biển, còn bao nhiêu bom phải trút
ra bằng hết. Và các làng xóm ven biển Nam Định Thái Bình, nhiều khi là một cánh
đồng, một bãi hoang vu vơ trở thành nơi hứng bom lu bù là vì thế. Việc  giới văn nghệ được ví với những vùng ném bom
tự do – cái cách nghĩ có ở một số anh em thạo đời  hồi ấy -- đã chứng tỏ văn nghệ có một thân phận
như thế nào. Liên tục bi cột vào những vụ việc không hiểu đầu cua tai nheo ra
sao, cả đám cứ nơm nớp  như đám con nhà
nghèo,  sợ cảnh bố mẹ cãi nhau lại mang
mình làm cớ. Hơn thế nữa, những việc vội vã  này cũng 
mở ra con đường cho những ngòi bút cơ hội, lấy việc hưởng ứng cấp trên để
lập thân -- đó mới là điều di họa cho thời gian sau.


 Tôi còn nhớ khi xảy ra các vụ Cái gốc, Tình rừng, đến các vụ Vòng trắng vòng đen, Cây Táo ông Lành…  thì  ở
nhà số 4 chúng tôi, các bậc đàn anh năng nổ là người xầm xì với nhau đầu tiên.
Nguyễn Khải mang về các tin bên Hội nhà văn. Hữu Mai thì có đầu mối  là các người quen trong Tổng cục chính trị,
cái chữ mà chúng tôi hay dùng là “dân thạo tin trong thành”. Cách nói của Nguyễn
Khải là cứ toe loe ầm ĩ cả lên, trong khi 
Hữu Mai thì úp úp mở mở, nhưng các anh đều ngầm nói rằng chắc là phen
này Tạp chí mình cũng phải lên tiếng chứ. 
Với vai trò là nhân vật số một của  VNQĐ, 
tôi đoán mọi chuyện Vũ Cao đã biết ngay từ đầu, nhưng trong các buổi họp,
Tổng biên tập của chúng tôi – mà hồi đó còn dùng cái chức danh Chủ nhiệm
--  chỉ nói là chờ cấp trên. Họp xong giải
tán trở về phòng riêng, Nhị Ca nói thẳng với tôi rằng cấp trên là ai, là ông ấy
[ = Vũ Cao] chứ còn ai nữa, vậy chắc là người còn đang tính, nhưng chắc là bố
mày chả làm gì đâu. Từ lâu mấy anh em làm công tác trị sự trong cơ quan như anh
Hà Trì, anh Doãn Trung đều bảo với tôi ông Cao nhà mình tuy chức danh chỉ ngang
trưởng phòng, nhưng lại có chân trong Đảng ủy Tổng cục, nơi mà các ông Cục trưởng
bình thường cũng không dám mơ. Thế mà Vũ Cao đã trúng mấy khóa liền. Về văn nghệ,
người ta có làm gì cũng phải tính đến ý kiến của ông. Nên lần này nghe Nhị Ca
nói vậy, tôi tin ngay. Quả nhiên Vũ Cao đã chi đạo tờ tạp chí của mình yên lặng
đứng ngoài không  tham gia vào các vụ
đánh đấm, các chiến dịch truy quét sai lầm đương thời.


 Khỏi phải nói trong việc này, Vũ Cao đã phải
suy nghĩ rất nhiều. Nó là chuyện sinh mạng chính trị của các quan chức. Đấu đá
đang là không khí của thời đại. Chỉ có con người lịch lãm và tự tin mới dám giữ một sự im lặng như vậy. Mà với ông nó là một sự nhất trí một sự liên tục.


Từ
1970,  đang từ giọng thơ trữ tình dẫu sao
cũng còn đằm thắm, Chế Lan Viên ngả hẳn sang những bài thơ chính luận sống sượng
và trong các phát biểu trong các Hội nghị thì có cái giọng sát phạt đe nẹt khiến
nhiều người biết Chế Lan Viên từ hồi chữa bệnh ở Trung quốc về không khỏi ngạc
nhiên. Tôi tưởng trong cơ quan chỉ Nguyễn Khải vì là người hay đi lại bên Hội
biết con người Chế Lan Viên thế nào (điều này tôi đã kể trong các hồi ức về
Nguyễn Khải), còn ông Vũ Cao cứ lầm lầm lì lì ngồi đọc Oeuvre et Opinion với lại  Lettre Francais  không để ý. Hóa ra tôi nhầm.


--
Lâu nay cứ tưởng thế nào, giờ mới biết chính bố Lành đứng đằng sau  Chế Lan Viên xúi hết.



Cao thủng thẳng nói, nhân một lần anh ghé lại chỗ mấy anh em khác trong đó có
tôi.


Cái
sự Vũ Cao không tham gia các vụ đánh đấm trong mấy năm ấy hóa ra có cả một quan niệm chi phối  dài dài. Anh đã là đồng đội từ Thâm Tâm, đã
chứng kiến những phút bi phẫn của Thâm Tâm trước khi hy sinh. Trần Dần là
người anh từng mến mộ và có quan hệ tốt với cả gia đình anh. Anh thường nhìn
Văn Cao với con mắt của một người cùng quê, trên đường lập nghiệp. Trong những
bài thơ Vũ Cao viết hồi kháng chiến, tôi
nhớ có bài Đèo trúc với mấy câu kết “
Lên ngang dốc núi / Chợt thấy mình say/
Người ơi hoa tím / Đầy rừng hoa bay
”. Kháng chiến hồi đầu là thế, là một lũ
thanh niên thích giang hồ kéo nhau đi vừa phục vụ xã hội vừa thỏa chí tò mò. Trong bụng ai cũng một mớ
lơ mơ, chỉ có người nói ra thế này người nói thế khác, người ngông cuồng quyết
liệt, người lặng lẽ thể nghiệm, chứ sai lầm tư tưởng gì, địch ta gì ở chuyện
này.


Chính
thức ra công khai từ 1957, thật ra lúc đầu
Văn Nghệ quân đội vẫn còn tính chất một
bản tin nội bộ. Các vụ đấu tranh chống ảnh hưởng xét lại lẫn xu hướng học theo
cách mạng văn hóa bên Bắc Kinh có được giới thiệu ít nhiều trên trang báo khổ lớn
thì cũng viết theo các tài liệu từ cấp trên đưa xuống từ bên ngoài đưa vào, chứ
không phải lả tiếng nói của các người trong cuộc. Cái sự nhũn nhặn không tham
gia vào việc mình không thạo, chỉ lo việc cấp trên giao phó cho mình, thực
ra là cả nguyện vọng chung của các cây bút mới thành danh trên tạp chí, chứ
không của riêng ai. Nhưng trong tay một người chừng mực và lão luyện như Vũ Cao, nó có sự đúng mức mà người ta có thể vì nể.


Trong
việc quản lý Văn nghệ quân đội, Vũ Cao hay nói rằng lãnh đạo tức  không
làm gì cả, cứ để cho việc mặc nhiên nó luân chuyển. Thực ra, đó là một cách
nói nhũn, nói tránh để không muốn bộc lộ ra những chủ kiến. Vũ Cao chỉ
không làm gì cả với nghĩa không hò hét không đao to búa lớn. Chứ đằng sau
cái vẻ dễ dãi, thật ra Vũ Cao có tính nguyên tắc của mình. 



một chuyện tới nay ít ai nói lại mà  Vũ
Cao không bao giờ nói ra, nhưng theo tôi, nó cho thấy bản lĩnh của Vũ Cao, đó là việc sử dụng các cây bút chủ lực của Văn nghệ quân đội. Một tư tưởng chi phối nhiều người lúc đó là tư tưởng bình
quân, đại khái cho rằng đã là nhân viên cơ quan thì người nào cũng như người nào, ai cũng
phải tuân theo sự phân công của người phụ trách và người phụ trách phải công tâm với nghĩa coi ai cũng như ai. Nhưng tôi nhớ, với hai nhà văn
xuất sắc nhất của văn nghệ quân đội những năm ấy là Nguyễn Khải và Nguyễn Minh
Châu, thì Vũ Cao có khác. Lệ của Tạp chí là anh em thay nhau về làm biên tập, hết
hạn biên tập mới được lo chuyên về sáng tác. Với các nhà văn mà anh ưu ái, Vũ Cao dành cho họ sự biệt nhãn, chứ không đến lượt lại lên, phải bỏ sáng tác để về làm
biên tập như mọi người khác. Và điều quan trọng hơn, Vũ Cao để cho hai nhà văn Nguyễn Khải Nguyễn Minh Châu tự do lựa chọn các đề tài và cách viết của mình. Anh tôn trọng những tìm
tòi của họ vì rất tin ở con người của họ. Cái công thức ngắn gọn “lãnh đạo
tức không lãnh đạo gì cả" thực chất là biểu hiện một sự hiểu biết của Vũ Cao
về mọi mặt văn nghệ, trong đó có việc sử dụng các tài năng.


Phần
lớn cán bộ phụ trách văn nghệ ở ta coi rằng
mình được bầu được cử  ra quản lý tức có
khả năng sáng tác hơn người . Nhưng Vũ Cao hiểu khác, anh hiểu sáng tác và quản
lý là hai lĩnh vực khác nhau. Một sự tôn trọng đầy thiện chí của người phụ
trách đối với cấp dưới có năng lực sáng
tác hơn mình, chính nó  làm nên  cái vinh dự 
của người quản lý và người ta sẽ ở lại trong lòng đồng nghiệp là ở sự biết
người biết của đó .


Sự
thực là chỉ có một người đọc nhiều, hiểu rộng như Vũ Cao thì mới có tầm nhìn và cách quản lý kiểu đó.


Tôi
nói Vũ Cao là một người đọc nhiều hiểu đọc vì tôi còn nhớ hồi ấy ngay trong
chiến tranh mà Văn nghệ quân đội vẫn lo đặt bằng được báo chí phương Tây như Europe,l'Humanité Dimanche …và tôi
thấy chúng luôn luôn xuất hiện trên bàn làm việc của Vũ Cao. Không chỉ bó hẹp trong
khu vực mình quản lý, Vũ Cao còn hiểu kĩ càng về đời sống văn học nói chung
và cả phần văn học phương Tây mà ít nhiều thế hệ như anh đã có biết từ trước.
Tôi cho rằng chỉ nhờ vốn văn hóa như vậy mà  Chủ nhiệm của chúng tôi có được quan niệm khá tự do
trong xử lý công việc. Một bằng chứng là mặc dù thời đó báo chí trong nước khá
im ắng không tính chuyện giới thiệu văn
học nước ngoài, nhưng từ 1973, khi tình hình có vẻ cởi mở một chút thì
trên  tờ tạp chí của chúng tôi, ở phần lí
luận, cũng sớm có được  tin tức và bài vở gọi là hé ra cho thấy thế giới.  Tin tức từ Trung quốc không có vì bên ấy vẫn
đang trong không khí của Cách mạng văn hóa. Mà Trung quốc không có thì Nga cũng không thể có. Trong cái khó ló cái
khôn, tôi đề nghị đưa các ý kiến bàn về nhà văn và chiến tranh của E. Hemingway
 và các ý kiến bàn về văn học của B.
Brecht,  rồi có khi đá sang cả Mỹ la tinh, nhất là khi nghe  cuốn Trăm năm cô đơn đang nổi như cồn... Vũ Cao sẵn sàng chấp nhận những bước hội nhập sớm sủa đó.


 Nên cắt nghĩa ra sao về hiện tượng này?


 Cách mạng tháng Tám 1945 và sự nghiệp toản quốc kháng chiến sau đó  sớm lôi cuốn vào hàng ngũ của mình lớp thanh
niên ưu tú mà trước đó về mặt con người
trí thức được đào tạo khá bài bản trong các nhà trường Pháp thuộc. Trong quân đội,
ta cũng thấy tập trung rất nhiều thanh niên tri thức trẻ. Trước khi các đợt
chính huấn theo kiểu Trung quốc được phát động những năm 50, nhiều chỉ huy
cao cấp trong quân đội là những sinh viên cũ của các trường đai học Hà Nội. Dưới
họ, làm nền cho họ, các bậc tú tài  cũ  lại càng đông đảo. Trước khi có sự xuất hiện các cây bút gọi là công nông  đám tri thức trẻ này có vai trò chủ yếu trong việc hình thành nên  bộ phận tuyên truyền báo chí văn nghệ trong quân
đội, và sau này họ cũng là những người cốt cán để xây dựng nền văn học nghệ thuật
nói chung. Khi có một số vụ việc xảy ra 
trong văn nghệ, cán bộ các Hội có vấn đề, người ta đều đưa cán bộ quân
đội ra thay.  Đặng Đình Hưng, Đỗ Nhuận, Huy Du, Chính Hữu, Hữu
Mai  Nguyên Ngọc … đều là như thế. Những
người này đóng vai chèo lái chủ yếu ở các Ban chấp hành, còn nhiều nhân vật có
uy tín chuyên môn vốn có ở Hội chỉ còn trên danh nghĩa. Những người này được
coi là trung kiên. Nhưng chữ trung kiên
này cũng có những nghĩa khác nhau của nó. Có những cán bộ thừa hành lấy việc nhất nhất làm theo cấp trên làm lẽ sống, thậm chí còn làm quá lên nữa để lấy thành tích. Nhưng có
những người tự tin ở sự trung thành của mình với cách mạng, vừa làm vừa lắng nghe,
vừa làm vừa điều chỉnh, cốt lấy việc phát triển đúng đắn của văn nghệ làm chính.
Với bản lĩnh và tầm nhìn sáng suốt, cuối cùng họ lại làm tốt cái điều mà họ và cấp
trên cùng mong mỏi  là đưa văn nghệ đóng góp vào sự nghiệp chung. Loại người thứ nhất rất nhiều, ngày càng nhiều tôi không kể ở
đây. Còn trong những người loại thứ hai, bao giờ tôi cũng nghĩ tới Vũ Cao.


Hồi
ấy, sự hiểu biết của bọn dân đen văn nghệ chúng tôi còn đơn giản lắm.  Làm gì có ai tính thoát ra được khỏi cái
không khí thời đại đang hừng hực.  Được gặp
những người vừa phải như Vũ Cao, trong hơn mười năm đầu đời làm nghề, tôi tự thấy mình đã may mắn lắm. Nó cũng là cơ
sở để sau này tôi tìm dần ra cách thích ứng mà vẫn giữ được cuộc sống tinh thần phần nào độc lập riêng tư  bên
Hội nhà văn.


Tôi
có một người bạn cũ là Nguyễn Quân , quen nhau từ sau 1975. Vốn đi học ở Đức về kinh tế, trở về nước,
anh còn đi dạy tiếng Đức một thời gian, rồi mới chuyển về dạy lý luận nghệ thuật
ở trường Mỹ thuật, trước khi trở thành họa sĩ. Một người chen ngang vào nghệ
thuật, người ta thường gọi anh như vậy. Theo chính lời kể của Nguyễn Quân, có lần
ông già bậc lão làng là Vũ Khiêu đã hỏi anh:


--
Có phải cậu là cái anh lách cửa phụ mà vào với giới văn nghệ phải không?


Quân
trả lời ngay:


--
Không thưa bác, cái cửa cháu vào mới là cửa chính còn cửa mọi người vẫn đi mới
là cửa phụ, chẳng qua nhiều người đi quá nên tưởng là cửa chính thôi.


 Cái kỳ lạ của Nguyễn Quân là chẳng bao lâu
chuyển sang bên Hội mỹ thuật anh đã trở thành một thứ thủ lĩnh mang lại nhiều
cách tân  vượt lên trên sự trì trệ kéo
dài của những năm chống Mỹ. Đúng vào lúc có những đổi mới, anh trở thành người
điều hành công việc của Hội. Có việc đi dự cuộc gặp gỡ của Tổng bí thư Nguyễn
Văn Linh ư, anh là một trong những người
đầu tiên người ta nghĩ tới , và quả là đã phát biểu raát mới, đến bây giờ vẫn cứ mới. Vốn là con một
vị tướng bên Tổng cục hậu cần, anh có niểm tự tin của đám con cháu trong nhà,  có những điều ở miệng người khác nói ra lập tức
ăn đòn, mà Nguyễn Quân nói người ta phải chịu. 


Tôi đã ghi lại điều này  trong nhật ký và giới thiệu trong bài trên mạng   Chuyện văn
nghệ Hà Nội nghe ở Moskva 1987 (kỳ II)


 Mới đây, hôm 5-12-2015, Nguyễn Quân kể lại một
việc hồi ấy tôi không được biết. Khi Quân làm thường trực Hội cũng là lúc có vụ cấp trên tha bổng cho các vị Nhân văn Giai
phẩm. Anh sớm bắt tay ngay vào cái việc cấp thiết  hồi đó là tổ chức có đến mười mấy triển lãm,
đưa sáng tác của những người lâu nay sống trong quên lãng trở nên thành tựu và  coi như niềm tự hào của cả giới. Sau khi
đưa Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng trở lại Hội anh còn lập tức tăng lương cho các cụ hôm
qua đã sống rất khổ sở đó, có những người lương cao hơn cả ông trùm đương thời
của Hội là Tổng thư ký Trần Văn Cẩn.


Tôi
hỏi Quân:


 -- Quả là việc không thể có bên Hội nhà văn.
Ông Thi lúc đó chỉ làm công việc đón cánh Nhân văn về một cách tượng trưng. Còn
Hữu Thỉnh sau này chỉ dùng ông Lê Đạt như một thứ “đối lập” để làm dáng, để ra vẻ đổi mới,  đối lập
nhằm tô vẽ cho chính các quyết định của mình. Thế lúc ấy ông không sợ các ông trên tuyên huấn không bằng lòng à?


--
Cánh bảo thủ toàn phóng đại ảnh hưởng của các cán bộ chính trị. Tôi thấy khác. Một
khi người ta đã tin là anh chỉ làm những việc cho người ta đẹp mặt, thì việc gì
người ta chẳng tán thành. Cái điều tôi
rút ra cho mình thời đổi mới thực ra
khá đơn giản. Cái sức ì lớn nhất chi phối mọi hoạt động của Hội lại nằm ở trong
đa số Hội viên và những người  đương quyền  trong giới của mình. Thắng được cái đó là thắng
tất mà thua cũng là thua luôn.


Tuy  Vũ Cao và Nguyễn Quân thuộc hai  thế hệ khác nhau, và tài năng khác nhau, nhưng tôi cảm thấy ở họ
có cái đức tính chung của những người quản lý mà giới văn nghệ rất cần. Lòng họ
trong sáng. Họ không có ý định dùng quan chức để leo trèo, kể cả leo lên một địa
vị cao trong sáng tác. Lòng tự tin ở họ bắt nguồn từ sự hiểu biết về guồng máy,
và trong thời của họ, họ đã điều khiển tốt guồng máy.








GHI CHÚ THÊM  ngày 14-1-2016


Đoạn trên tôi có nhắc tới họa sĩ Nguyễn Quân. Sau khi bài viết này đưa trên mạng, tôi có chuyển cho anh Quân và được anh trả lời trong đó có mấy ý  nói lại về công việc của anh và các đồng sự ở Hội mỹ thuật VN khoảng 1986-1990. Xin chép lại dưới đây để bạn đọc cùng biết và xin các bạn hiểu cho rằng trong việc nhớ lại chuyện cũ việc đạt tới độ chính xác là điều rất khó, chỉ xin hứa là khi nào chúng tôi phát hiện ra sai lầm của mình sẽ công khai ngay. 





Cảm ơn Bác đã nhắc tới tôi rất ưu ái. Có 2 điểm cần đính chính

Không phải tôi đưa các
ông  Sáng Phái Nghiêm trở lại hội. Các vị đó vẫn ở tổ sáng tác của hội.
Chúng tôi (0 chỉ mình tôi) làm TL riêng tôn vinh ba cụ này (không có DB Liên) trước khi
có việc khôi phục đám Nhân Văn, tôi nhớ sau các TL tôn vinh đặc biệt
này còn gặp Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt đều còn 'than thở trong bóng
tối'' cả. Việc tăng lương cho Nguyễn Sáng hay tìm nhà cho NT Nghiêm tôi
chỉ ủng hộ thôi còn bà Đ.Th.Khuê ông Lương Xuân Đoàn mới là chính.

Mới
đây có vài luận văn thạc sĩ, tiến sĩ vế MT Việt Nam (của một cậu Đài
Loan thì phải và cô Lê Kim thư mới  làm TS xong...hoặc cuốn Painters in
Hanoi, lv TS cuả Nora Taylor in 1996) đều có đề cập tới vai trò đồi mới
của tôi, Khuê và Đoàn.Tôi nghĩ có 1 điều khác với hội nhà văn và các hội
khác là bên Hội MT ba chúng tôi tự phát hơn, hồn nhiên hơn, có lý lận
văn hóa hơn (dù cũng ảo tưởng hơn)  và đi trước góp trực tiếp thay đổi
phần nào quan điểm cả Đảng (ông Trần Độ , NV Linh...) lúc đó chứ không
đi và làm sau khi có yêu cầu đổi mới của Đảng như các anh Nguyên Ngọc,
NĐTHi hay Nguyễn Khải...Chúng tôi không tranh quyền lãnh đạo Hội, chúng
tôi cũng ảo tưởng hơn về một nền NT tự do và về một thể chế văn hóa  dân
chủ trong xã hội 1 đảng nắm tất.  Cũng vì thế Mt góp vào đổi mới thực
chất hơn,  bằng thay đổi ngữ và 'lối sống' của NT. MT sau dổi mới chẳng
còn dình dáng gì tới HT xhcn và Mt tiền chiến nữa.

nq








Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2015

Những sao Việt sinh 3 con vẫn giữ được vóc dáng xinh đẹp

Theo tin tuc sao viet Mặc dù đã trải qua ít nhất 3 lần sinh nở và dành nhiều thời gian cho gia đình lẫn công việc nhưng những người đẹp dưới đây vẫn giữ được vóc dáng thon gọn và ngoại hình xinh đẹp của mình.

Hoa hậu Hà Kiều Anh


Hoa hậu Hà Kiều Anh là một trong những hoa hậu đăng quang trẻ nhất Việt Nam. Sau 20 năm đăng quang người đẹp Hà Kiều Anh đang sống hạnh phúc bên chồng và 3 người con.

Chị sinh con thứ 3 vào cuối tháng 10/2015 vừa qua. Một tháng sau khi sinh, Hà Kiều Anh xuất hiện trong đầy tháng của con và người đẹp đã có được vóc dáng xinh đẹp như trước khi sinh.


Hình ảnh gần nhất tin tuc giai tri cập nhật hình ảnh Hà Kiều Anh xuất hiện là khi tổ chức sinh nhật cho con trai nhỏ Vương Khang tròn 4 tuổi.

Sau khi sinh con hơn 1 tháng, Hà Kiều Anh vẫn chưa xuất hiện trở lại vì người đẹp vẫn còn muốn dành thời gian chăm sóc cho công chúa nhỏ của mình.

Hoa hậu Nguyễn Diệu Hoa


Bà mẹ 3 con vẫn giữ được vóc dáng của 1 hoa hậu với gương mặt lúc nào cũng xinh đẹp và vóc dáng thon gọn. 

Nguyễn Diệu Hoa đăng quang cuộc thi "Hoa hậu Việt Nam 1990" khi đang là sinh viên năm thứ 4 khoa tiếng Nga của Đại học Ngoại ngữ Hà Nội.

Chị được đánh giá là hoa hậu có trình độ học vấn hàng đầu khi thông thạo 5 thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Ấn và Thái. Năm 2006, Diệu Hoa còn được ghi vào sách kỷ lục Việt Nam là "hoa hậu thông thạo nhiều thứ tiếng nhất".


Dù được đánh giá khá thành công trên con đường sự nghiệp nhưng Diệu Hoa cũng là người phụ nữ của gia đình. Hiện chị đang sống hạnh phúc cùng người chồng Ấn Độ - người đã gặp chị trong cuộc thi hoa hậu cùng với 3 người con.

Ca sĩ Trang Nhung


Là ca sĩ chuyên trị dòng nhạc dân ca với nhiều giải thưởng dành cho giọng hát của mình. Thế nhưng sau thời gian kết hôn cùng đại gia Ngô Nhật Phương, ca sĩ Trang Nhung tạm ngưng ca hát để dành thời gian cho gia đình. Vừa qua, Trang Nhung đã quay trở lại với âm nhạc qua cuộc thi Tuyệt đỉnh tranh tài và giành giải 3 sau thời gian dành trọn vẹn thời gian cho việc kinh doanh cùng chồng.

Trang Nhung bên chồng và 4 người con

Đến nay thì nữ ca sĩ đã là mẹ của 4 người con. Mặc dù đã trải qua 4 lần sinh nở nhưng chị vẫn giữ được vóc dáng thon gọn và sự trẻ trung, năng động.

Ốc Thanh Vân


Sau thời gian kết hôn cùng ông xã thì Ốc Thanh Vân đã sinh liên tiếp 3 người con. Bận rộn với công việc của MC, diễn viên và cả kinh doanh nhưng bà mẹ 3 con Ốc Thanh Vân vẫn luôn giữ sự tươi tắn và năng động.


Gia đình hạnh phúc và ngập tràn tiếng cười của Ốc Thanh Vân

Có lẽ với cường độ làm việc chăm chỉ và liên tục cũng là một phần giúp Ốc Thanh Vân nhanh chóng lấy lại vóc dáng quyến rũ của mình.

“Làm mẹ là thiên chức tự hào của phụ nữ, mình hạnh phúc với cuộc sống gia đình. Là phụ nữ, ai cũng muốn vun đắp xây dựng gia đình hạnh phúc. Mình hài lòng với quyết định sinh thêm con đúng thời điểm và đặc biệt khi xung quanh có đủ điều kiện hỗ trợ”, Ốc Thanh Vân từng chia sẻ.

Ca sĩ Thu Phương

Ở tuổi ngoài 40, Thu Phương có vóc dáng và sự quyến rũ vượt trội so với đồng nghiệp cùng trang lứa khi xuất hiện trên sân khấu.

Thu Phương xinh đẹp với áo dài

Trở lại Việt Nam sau nhiều năm định cư tại nước ngoài, ca sĩ Thu Phương xinh xắn và lộng lẫy giữ vai trò huấn luyện viên cho “Giọng hát Việt” 2015. Với hình ảnh thon gọn và tươi tắn khi ngồi ở vị trí ghế nóng, thật khó tin khi nói chị đã là bà mẹ của bốn đứa con.


Thu Phương cùng "ông xã" bên các con.

Trải qua nhiều sóng gió trong cuộc sống lẫn tình cảm, Thu Phương đã vượt qua tất cả để có cuộc sống hôn nhân viên mãn và hạnh phúc như hôm nay.

Sau thời gian trở về nước tham gia các hoạt động âm nhạ, hiện tại Thu Phương đã trở về Mỹ sinh sống, thỉnh thoảng chị cũng xuất hiện tại các chương trình ca nhạc lớn trong nước. Chị luôn chia sẻ về cuộc sống hạnh phúc bên gia đình với 4 người con và người chồng hiện tại.

Xem thêm: meo vat moi ngay